Hoàng Kim
Trăng sáng lung linh , trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.
*
Tôi sinh vào lúc nửa đêm trăng rằm Nguyên tiêu năm giáp ngọ. Anh Hai tôi mất nửa đêm trăng rằm Nguyên tiêu năm 1994. Đó là những thời khắc cuộc đời, tôi thương nhớ mãi. Mẹ tôi mất sớm. Cha cũng mất sớm quá. Sau này nhiều rằm xuân, tôi thường khắc khoải ngắm trăng khuya một mình và nhớ không nguôi bài thơ "Cuốc đất đêm" của anh: "Mười lăm trăng quả thật tròn. Anh hùng thời vận hãy còn gian nan. Đêm trăng nhát cuốc xới vàng. Trăng dòm ta hẹn trăng càng dòm thêm. Đất vàng, vàng ánh trăng đêm. Đêm khuya ta với nàng quên nhọc nhằn". Tôi đã viết bài thơ: "Trăng xưa cùng anh cuốc đất. Trăng nay mình em làm thơ. Không gian một vầng trăng tỏ. Trăng ơi rọi đến bao giờ?".
Đêm nay tôi lại nhớ về Hà Nội. Tôi nhớ Nghìn năm Thăng Long Đông Đô Hà Nội với chùm ảnh tuyệt đẹp của một góc nhìn. Tôi nhớ nhưng đêm trăng ở nhiều nơi trên khắp Tổ Quốc. Tôi bâng khuâng Nỗi nhớ mùa đông khúc hát trữ tình say đắm của Phú Quang, lắng những điều sâu thẳm Hà Nội trong mắt ai của đạo diễn Trần Văn Thúy. Tôi nhớ trăng Tây Hồ, nhớ bún ốc Hà Nội và tìm về Một người Hà Nội của Nguyễn Khải để đọc lại.
Cái kết của tản văn thật hay và có hậu: "Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa
nhìn sang đền Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây đè lên hậu
cung, một phần bộ rễ bật gốc chỏng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự
khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Với người già, bất
kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của
họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi.
Cô nói với tôi thế, đã biết nói thế đâu phải đã già.
Mấy ngày sau, cô kể tiếp,
thành phố cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo
dần lên, mỗi ngày một tí. Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn
là cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi,
mà lại sống. Cô nói thêm : "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật
không thể lường trước được".
Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất
khôn ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết,
nhưng phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó
vào những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá.
Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống
chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội
hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.".
Bác Hồ có bài thơ Nguyên tiêu và tứ thơ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối.
Đối diện mặt trời đỏ là vầng trăng hiền hòa soi sáng cây mai vàng, cây
đào bên nước biếc. Đúng là vầng trăng Việt! Trăng rằm.
Hoàng Kim
(tản văn )
Bây giờ mời bạn hãy đọc:
HÀ NỘI TRONG MẮT AI
NỖI NHỚ MÙA ĐÔNG
<iframe width="420" height="315" src="http://www.youtube.com/embed/6pNmC3S_KxA" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Nhớ Bắc
Huỳnh Văn Nghệ
Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long...
http://vanhoc.xitrum.net/thoca/hiendai/6448.html
Hướng về Nam
Thủ Đô giữa tháng năm này
Lọc muôn sắc đỏ cho ngày hội vui
Nhớ thương trong dạ bồi hồi
Trông cờ hoa nhớ đất trời phương Nam ...
Hoàng Kim
Nghìn năm Thăng Long Đông Đô Hà Nội
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
Nguyễn Khải
1.
Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Năm
1955, tôi từ kháng chiến trở về một Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước, còn họ
hàng chỉ còn lại có dăm gia đình, vì chồng và con đều đi theo cách mạng. Cô Hiền
cũng ở lại, dầu cô chú vẫn sống ở Hà Nội suốt chín năm đánh Pháp, các con lại
còn nhỏ, chả có dính líu gì đến chính phủ "ngoài kia" cả. Họ ở lại chỉ
vì không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác. Lại
thêm, chú tôi làm nghề giáo học, một ông giáo dạy cấp tiểu học, là người cần
thiết cho mọi chế độ, chế độ cộng sản cũng phải khuyến khích trẻ con đi học, học
văn hóa và học làm người. Còn chính trị chính em là những lứa tuổi trên, học
sinh tú tài và sinh viên đại học. Tính thế là đúng nhưng tôi vẫn lo, thật ra
không có gì đáng để phải lo, nhưng tôi vẫn nghi ngại gia đình này rất khó gắn
bó với chế độ mới và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ. Là vì họ ở rộng
quá, một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra
cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn. Với người vô sản, ở quá rộng là một
cái tội, trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập
thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè. Cái mặc cũng sang trọng
quá. Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi
giày nhung đính hạt cườm. Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn
trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy
bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định. Gia đình tôi thì ăn uống bình dân
hơn, vợ chồng con cái ngồi súm sít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra
đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm,
cứ việc sục muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả
hê, không cần phải theo bó một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay
hớm gì cái thứ lễ nghi của... giai cấp tư sản. Tôi không dám thốt ra miệng
nhưng vợ chồng vẫn bảo riêng nhau : "Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là
tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính
líu nhiều có ngày lại rắc rối".
2.
Đã là người gốc Hà Nội thì không thể không nghe nói tới sự giàu có lương thiện
của cụ Tú Dâu Hàng Bạc, là nhà ở cuối Hàng Bạc đầu Hàng Mắm. Xưa kia đất ấy là
bến sông, mành Nghệ An chở nước mắm ra đổ tại bến và bốc ngay lên nhà. Nước mắm
đổ vào các kiệu chôn chìm trong đất, mỗi lần thay phải dùng khăn bông trắng lau
chùi sạch. Một dãy nhà chôn kiệu nước mắm và một gian nhà để tiền, tiền kẽm,
mang một quan tiền kẽm đã phải vác vai. Cụ Tú đậu tú tài khoa thi hương cuối
cùng khi tuổi đã lớn, sau đó là bỏ hẳn bút lông để theo bút sắt. Cụ Tú ngâm thơ
vịnh nguyệt, ăn ở giao tiếp theo kiểu cách nhà quan, dạy con cái cũng theo
khuôn phép nhà quan là cái phần hào nhoáng của gia đình. Còn cái phần căn cốt,
cái phần được người đời trọng thực nể thực, cái gian nhà tiền ấy đều do hai bàn
tay đảm đang của vợ gây dựng nên. Bà chỉ buôn có nước mắm thôi. Thơ của cụ Tú
được bạn bè khen nịnh chẳng qua là nhờ ở cái mùi nước mắm Nghệ, nhờ ở cái mùi
tiền từ các kiệu nước mắm, con cháu sau này vẫn đùa vụng thế. Bà Tú Dâu là em
ruột bà ngoại tôi và là chị ruột mẹ cô Hiền. Hình như cả ba chị em đều lớn lên ở
Hà Nội cùng một thời, cái thời Pháp mới sang, phố phường còn là nhà lá, nhưng
chỉ có bà Tú là tiếng tăm hơn cả. Nhìn những tấm ảnh các cụ chụp từ đầu thế kỷ
mà cảm động. Các cụ đều không được đẹp, mặt vuông trán ngắn, mắt hẹp và dài, lại
hơi xếch một chút, gò má thì cao. Cả ba cụ đều ăn mặc theo cái mốt của thời ấy
: khăn vấn bỏ đuôi gà, áo tứ thân bằng hàng tơ dệt thưa gọi là xuyến, mặc quần
lĩnh Bưởi và đi hài. Ba bà đặc nhà quê nhưng lại đẻ ra một loạt con gái rất tân
thời. Khoảng cuối những năm ba mươi, mẹ già tôi vẫn để răng đen, nhưng đã vấn
tóc trần, đeo kiềng cổ và vòng tay bằng vàng chạm vừa thô vừa nặng. Cô Hiền vào
những năm ấy đã cạo răng trắng và uốn tóc, mặc quần áo đồng màu, hoặc đen hết,
hoặc trắng hết. Còn nữ trang đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim và hạt xoàn. Cũng
vào những năm ấy có một số gia đình công chức cao cấp và quan lại, có cả mấy
nhà buôn bán tơ lụa, thuốc bắc, kim hoàn, cho con gái lớn mở phòng tiếp khách
văn chương, gọi là salon littéraire để mời gọi mấy anh văn sĩ, thi sĩ mới nổi
và các cậu sinh viên cao đẳng. Khách văn chương là cái khung phải có, còn đám
công tử một mai sẽ thành quan đốc, quan trạng, quan huyện mới là những nhân vật
chính của mọi mộng mơ theo kiểu Tự lực văn đoàn. Ngôi nhà của cô Hiền cũng là một
salon nổi tiếng, không phải vì bố mẹ giàu hoặc sang mà vì có con gái lớn quá đẹp,
vừa đẹp vừa thông minh, biết cách tự khoe bằng những mẩu chuyện rất duyên dáng
của mình. Tôi sở dĩ biết vô ối chuyện vặt vãnh của mấy ông Lan Khai, Đái Đức Tuấn
tức Tchya, Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, Hồ Dzếnh... là do cô tôi kể lại cả.
Ông Trương còn nhờ cô đọc giùm bản thảo của nhiều cây bút chưa thành danh, một
phần vì tin ở tài thẩm định văn chương của cô, phần nữa cũng vì ông bận quá : bận
viết, bận hút và bận cách làm giàu. Tôi hỏi đùa : "Vậy cái ông Nam Cao là
do cô tìm được ra phải không ?" Cô trả lời rất nghiêm trang : "Ông Lê
Văn Trương tìm ra. Là do ông nằm hút thuốc phiện ở nhà Trác Vỹ, tiện tay với lấy
một chồng bản thảo để kê đầu, rồi tiện tay lôi ra một tập để đọc, cái tập ấy có
tên "Cái lò gạch" do một cây bút hoàn toàn vô danh viết ra".
3.
Được sống năm đầu ở Hà Nội vừa giải phóng với lứa tuổi chúng tôi ngày ấy mới
hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh, là cực kỳ khoan khoái. Chín năm xa phố phường,
xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, không được vào một
cái chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm đều ở
Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội. Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống
ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ ? Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống,
cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Một lần tôi đến thăm cô chú, thằng em trai
đã 14, 15 tuổi chạy ra mở cửa rồi kêu ầm lên : "Mẹ ơi ! Đồng chí Khải đến".
Cô tôi cau mặt gắt : "Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa ?" Bất đồ chú
tôi cũng bước tới, nắm tay tôi rồi hỏi hồn nhiên : "Tại sao chủ nhật trước
đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi". Cô tôi thở dài, quay người
đi. Tôi nói : "Nước được độc lập vui quá cô nhỉ ?" Cô trả lời :
"Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ?" Theo
cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi
sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải
yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở. Về sau tổ dân
phố lại vận động nhau không nên nuôi người ở. Nhà này trước đây có hai người ở,
một anh bếp và một chị vú. Chị vú là vợ anh bếp, đẻ được đứa con nào lại đưa về
quê cho bà ngoại nuôi. Sau ngày giải phóng cô tôi cho anh bếp về quê làm ruộng,
còn chị vú vẫn ở lại, vì chủ tớ còn cần dựa vào nhau. Mỗi ngày chị đi chợ, đều
có cán bộ bám theo, dò hỏi : "Chị có bị nhà chủ hành hạ không ? Tiền công
có đưa đều đặn không ? Thái độ chính trị của họ là như thế nào ?" Chị vú gắt
ầm lên : "Nếu họ không tử tế tôi đã xéo đi từ lâu rồi không cần anh phải
xui". Chị ta kể lại chuyện đó cho cả nhà nghe, bình luận : "Cách mạng
gì toàn để ý đến những chuyện lặt vặt!". Bây giờ thì chị vú đã mất rồi, về
quê được bốn năm thì mất. Chị trông con cho bà cô tôi từ năm 19 tuổi đến năm 45
tuổi mới về quê, tình nghĩa như người trong họ. Anh chồng không lấy vợ khác vì
các con đã trưởng thành, anh làm chủ nhiệm một cửa hàng mua bán của xã, ngày giỗ
ông chú và ngày tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả,
lên biếu cô và các em.
4.
Trong lý lịch cán bộ tôi không ghi tên cô Hiền. Họ thì xa, bắn súng đại bác
chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản, dính líu vào thêm phiền. Tôi vẫn
đinh ninh cô phải thuộc giai cấp tư sản vì cô có gương mặt đặc biệt là tư sản,
càng già lại càng rõ. Tôi hỏi cô :
- Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ?
Cô Hiền cười rất tươi :
- Tao chưa đủ tiêu chuẩn.
Tôi cũng cười :
- Lại còn chưa đủ.
Cô nói thản nhiên :
- Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai
cả thì làm sao thành tư sản được.
Tôi nín lặng vì đó là sự thật. Cửa hàng của cô chỉ bán có một thứ : hoa giấy,
các loại hoa giấy và các lẵng hoa đan bằng tre, thêm ít bưu ảnh và sổ tay kỷ niệm.
Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt, nhưng chịu thuế rất nhẹ, chỉ có một mình cô làm,
các con thì chạy mua vật liệu, hoặc làm giúp phần cuống lá vào dịp Tết ta và Tết
tây. Nhiều bà bạn cũng tỏ ý ngờ vực : "Trông bà như tư sản mà không bị học
tập cũng lạ nhỉ?". Cô tôi trả lời thật nhẹ nhàng : "Các bà không biết
nhưng nhà nước lại rất biết". Tất nhiên là cô khôn hơn các bà bạn của cô
và cũng thức thời hơn ông chồng. Sau ngày Hà Nội giải phóng cô vẫn có hai dinh
cơ, một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Ông làm nghề dạy học, con
đông, đủ ăn là may, có tiền dư để tậu nhà là do ông viết sách giáo khoa cấp tiểu
học, được Nha Học chính công nhận và cho in bán. Năm 56, cô bán ngôi nhà ở Hàng
Bún cho một người bạn mới ở kháng chiến về. Một năm sau có một cán bộ đến hỏi về
nhà cửa và có nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún. Cô trả lời tỉnh khô : "Xin mời
anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn
thắc mắc xin mời anh trở lại". Cũng trong năm 56, ông chú tôi muốn mua một
cái máy in nhỏ để kinh doanh trong ngành in vì chế độ mới không cho phép ông mở
trường tư thục. Bà vợ hỏi lại : "Ông có đứng máy được không ?" - Ông
chồng trả lời : "Không" - "Ông có sắp chữ được không ?" -
"Không"- "Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông
muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à ?" Ông chồng tính vốn nhát, rút lui
ngay. Cô kết luận với tôi : "Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ
cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục,
nên tao chỉ cần đủ ăn". Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ
ăn, lại nhàn, lại không phải lo sợ gì. Tôi hỏi lại : "Còn chú, còn các em
?" - "Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán
bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ tài để không phải sống
bám".
5.
Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội là những người đàn bà có đầu óc rất thực tế.
Mọi sự mọi việc đều được các bà tính toán trước cả. Và luôn luôn tính đúng vì
không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng
mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm
tiếu của thiên hạ. Cô tuyên bố thẳng thừng với tôi : "Một đời tao chưa từng
bị ai cám dỗ, kể cả chế độ". Gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng, không lấy
một ông quan nào hết, cũng chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân, đùa vui một
thời còn son trẻ thế là đủ, bây giờ phải làm vợ làm mẹ, cô chọn bạn trăm năm là
một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc.
Có gì mà kinh ngạc, cô đã tính trước cả. Sau khi sinh đứa con gái út, người con
thứ năm, cô nói với chồng : "Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi
tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự lập,
khỏi sống bám vào các anh chị". Là thôi hẳn. Cô bảo tôi : "Mày bắt nạt
vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà
không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao". Khi các con còn
nhỏ, ngồi vào bàn ăn cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa,
cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô vẫn răn lũ con tôi : "…
là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện,
buông tuồng". Có lần tôi cãi : "Chúng tôi là người của thời loạn, các
cụ lại bắt dạy con cái theo thời bình là khó lắm". Cô ngồi ngẩn ra một
lúc, rồi bảo : "Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau
này muốn sống ra sao là tùy".
Đầu năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, là đợt đầu tiên
nên tuyển chọn rất kỹ càng, lứa tuổi từ 18 đến 25, diễn viên cải lương và kịch
nói có, nhạc sĩ có, họa sĩ có, giáo viên trung học rất đông, là những chàng
trai ưu tú của Hà Nội. Nghe nói khoảng 660 người. Người con trai đầu của cô Hiền
vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện đăng ký xin đi đánh Mỹ. Tháng 4 năm 1965,
lên Thái Nguyên huấn luyện. Tháng 7 rời Thái Nguyên vào
Nam. Họ dừng lại
ở Hà Nội vài giờ vào lúc tối, nhưng không một ai biết. Tôi hỏi cô : "Cô bằng
lòng cho em đi chiến đấu chứ ?" Cô trả lời : "Tao đau đớn mà bằng
lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng
là biết tự trọng". Ba năm cô không nhận được tin tức gì về đứa con đã ra
đi, lại đến thằng con kế làm đơn xin tòng quân, cũng đòi vào chiến trường phía
trong để gặp anh, nếu anh đã hy sinh thì nối tiếp chí hướng của anh. Tôi hỏi lại
cô: "Cô cũng đồng ý cho nó đi à ?" Cô trả lời buồn bã: "Tao
không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống
để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó". Rồi cô chép miệng:
"Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc
chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì". Cũng may chú em tôi học rất giỏi, thi
vào đại học với số điểm cao, nên nhà trường giữ lại. Tôi đến chúc mừng cô và
em, cô nói: "Hiện tại thì nó may hơn anh nó, nhưng nếu anh nó còn sống thì
cũng chưa biết đứa nào may hơn đứa nào". Cô tôi tính toán việc nhà việc nước
đại khái là như thế.
6.
Tháng 12 năm 1975, cô Hiền cho con gái xuống nhà gọi vợ chồng tôi tới ăn liên
hoan mừng em Dũng đã về. Cô nói: "Nó đeo ba lô bước vào đến giữa nhà tao
còn hỏi, anh muốn mua gì ?" Tôi cũng không thể nhận ra nếu được gặp đồng
chí thượng úy này ở đâu đó. Gầy ốm quá, da đen quá, râu ria cũng nhiều quá, chẳng
còn tí dấu vết gì là một chàng trai của Hà Nội. Trong mấy chục năm sống dưới chế
độ ta, mỗi tháng cô đều tổ chức một bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội,
những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kỳ. Khoảng mươi, mười lăm người gì
đó. Cửa hàng đóng từ chiều, các bà lần lượt đến trước, xông ngay vào bếp cùng
làm cơm, các ông đến sau, mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, bỏ áo khoác ngoài bên trong còn
mặc đồ bộ, thắt cà-vạt, nhưng đã sờn bạc cũ kỹ. Tiệc đã bày xong, vẫn chỉ có mấy
ông ngồi tán suông chứ chưa thấy các bà. Rồi cửa trong mở, bà chủ xuất hiện trước
như diễn viên trên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt
bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây
đi lại uyển chuyển. Ngày thường các bà mặc áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc
đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, là các cô Lọ Lem của
mỗi ngày, có phải nói chuyện mình cũng dễ ăn nói buông tuồng, thiếu ý tứ. Tất cả
là bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục. Còn lúc này, toàn là những người
quí phái mình phải xử sự ra sao nhỉ? Cô hỏi tôi : "Xã hội nào cũng phải có
một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã hội
ta thì là tầng lớp nào ?". Tôi cười phá lên : "Thưa cô, là bọn lính
chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi, chứ còn ai nữa". Cho nên cái mùi
lính tráng thâm nhiễm vào mọi nơi mọi chỗ, quan hệ kiểu lính, vui chơi kiểu lính,
ăn nói kiểu lính, văn chương cũng là một mùi lính. Là người lính vừa chiến thắng,
người lính đang được cả xã hội trọng vọng. Còn bây giờ, sau bữa tiệc mừng đại
thắng mười lăm năm, tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn của mình rồi. Bây giờ
là thời của các giám đốc công ty, các tổng giám đốc công ty, các cố vấn, chuyên
viên kinh tế thật giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả
xã hội. Tôi xin trở lại cái bữa tiệc của buổi tối hôm ấy, bữa tiệc của mấy người
thượng lưu của Hà Nội đã mất ngôi tiếp đãi, chiều nịnh hai anh bộ đội từ một
thành phố lớn nhất nước trở về. Nói cho thật, Dũng là nhân vật chính, còn tôi
chỉ là một loại nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái vinh quang chung mà thôi. Trong bữa
tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành phố Sài Gòn rộng hơn, đông
hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn
hơn người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều nín lặng, không một ai hỏi lại,
không một ai bình phẩm gì thêm. Tôi đã nói điều gì thất thố ? Một ông già hướng
mặt về phía Dũng bảo: "Đồng chí bộ đội có chuyện gì vui kể nghe nào?"
Dũng nói : "Thưa các bác, chỉ có những chuyện không được vui lắm". Một
bà nói : "Cứ nói, người ở xa về có quyền muốn nói gì thì nói" Dũng
nói rằng trong nửa năm nay anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi
cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người, bây giờ còn lại khoảng trên dưới
bốn chục. Anh kể về một người bạn cùng trung đoàn, cùng một cấp thượng úy, tên
là Tuất. Khi chuyến tàu từ Thái Nguyên tiến vào ga Hà Nội đã gần nửa đêm. Vừa
mưa to xong, ánh điện lòe nhòe trên lá cây, trên những mặt đường vắng hun hút,
trên sân ga Hà Nội. Tàu vừa dừng lại thì từ đâu đó bật lên tiếng loa rất sâu, rất
vang : "Quí khách chú ý ! Quí khách chú ý ! Chuyến tàu từ Thái Nguyên...".
Tuất ngồi cạnh Dũng chợt nhoài người qua mặt bạn, gần như đưa cả nửa thân người
qua khuôn cửa sổ, hất mặt lên phía có tiếng loa kêu nho nhỏ: "Dũng ơi,
Dũng, tiếng của mẹ mình đấy ! Tiếng của mẹ mình đấy !...". Không một ai được
phép rời khỏi toa tầu, không một người thân nào được biết trước để chờ sẵn ở
sân ga, để được nhìn nhau lần cuối, nói với nhau một lời cuối. Tất cả đều phải
bí mật. Dũng kể tiếp:
- Thằng Tuất hy sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy
ngày. Cháu về Hà Nội là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ
Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau trong suốt mười năm. Vậy
mà phải mấy ngày sau cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có
con hy sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm
nay. Bà bước ra giữa một đám đông nhưng cháu vẫn nhận ngay được là mẹ của Tuất.
Tuất vẫn nói là hắn giống mẹ hơn giống cha. Cháu chỉ vừa kịp nói : Thưa cô,
cháu là Dũng... nước mắt đã đầm đìa, rồi cháu òa khóc y hệt một đứa trẻ. Bà níu
chặt lấy một cánh tay của cháu nhưng không khóc. Và bà nói run rẩy : "Nín
đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi".
7.
Nhiều năm đã trôi qua. Tôi sống ở thành phố Hồ Chí Minh thỉnh thoảng có việc phải
ra Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Chú tôi đã mất rồi. Các em đã có gia đình
riêng. Chúng nó cũng đã bắt đầu già. Lớp các cụ trong họ chỉ còn vài người, cô
Hiền là một. Cô đã yếu nhiều, đã già hẳn, ngoài bẩy mươi rồi còn gì, nhưng cô vẫn
là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Nơi tiếp khách của cô
sau tấm bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm suốt mấy chục năm không hề
thay đổi. Một bộ sa lông gụ "cái khánh", cái sập gụ chân quì chạm rất
đẹp nhưng không khảm, cái tủ chùa một cánh bên trong bày một cái lọ men Thúy Hồng,
một cái lư đời Hán, một cái liễn hấp sâm Giang Tây, và mấy thứ bình lọ màu men
thì thường nhưng có dáng lạ, chả rõ từ đời nào. Cô đang lau đánh một cái bát thủy
tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nổi bằng đồng, miệng chân cũng đều bịt đồng,
thật đẹp. Bên ngoài trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt,
lại nhìn một bà lão (nếu là một thiếu nữ thì phải hơn) lau đánh cái bát bày thủy
tiên thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn một cái tết Hà Nội. Năm
nay chắc chưa thể có thủy tiên. Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ
mà lại không buôn được vài ngàn củ thủy tiên nhỉ ? Ví thử có thủy tiên liệu còn
có người biết gọt tỉa thủy tiên? Lại thêm cái cách sống, cái tâm lý sống ồ ạt,
xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái chết cái khổ đã dễ gì có được sự
bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một rò hoa thủy tiên. Cô Hiền hỏi
:
- Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào ?
Tôi vừa cười vừa nói :
- Chưa bao giờ Hà Nội vui như bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui.
- Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại.
Tôi nói :
- Có đúng một phần, phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn nghe những
người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ
rõ.
Nói thế cũng hơi nghiệt. Vì có mấy việc vừa xảy ra làm tôi tức, tức và đau. Tôi
đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, tôi đạp chậm, vừa đạp vừa nghĩ ngợi. Một ông bạn
trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào xe tôi, may mà gượng kịp. Tôi quay lại
nói cũng nhẹ nhàng : "Cậu đi đâu mà vội thế ?". Hắn không trả lời, đạp
vượt qua xe tôi, rồi quay mặt lại chửi một câu đến sững sờ: "Tiên sư cái
anh già !". Lại một buổi sáng tôi đến thăm một người bạn ở quận Đống Đa,
đã lâu không đến nên quên đường, lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là
nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ.
Tôi có than phiền với vợ chồng bạn về sự thiếu lễ độ của người Hà Nội, cô con
gái đang cho con bú góp lời liền : "Ông ăn mặc tẩm như thế lại đi xe đạp họ
khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cưỡi con cúp xem, thưa gửi tử tế
ngay". Tôi cười nhăn nhó: "Lại ra thế !". Cô Hiền không bình luận
một lời nào về những nhận xét không mấy vui vẻ của tôi về Hà Nội. Cô than thở với
tôi rằng dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt một bà
già nhà quê. Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa nhìn
sang đền Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây đè lên hậu cung, một
phần bộ rễ bật gốc chỏng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác thường,
sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Với người già, bất kể ai, cái
thời đã qua luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội
thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Cô nói
với tôi thế, đã biết nói thế đâu phải đã già. Mấy ngày sau, cô kể tiếp, thành
phố cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần
lên, mỗi ngày một tí. Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là
cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà
lại sống. Cô nói thêm : "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không
thể lường trước được". Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn
ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết,
nhưng phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó
vào những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá.
Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống
chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội
hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.
Nguyễn Thị Tuyết Hạnh
Cuối tuần xin mời các bạn thưởng thức món bún ốc Hà nội
Cứ mỗi khi thu về se se lạnh là lại thấy thèm bún ốc.Mà cũng
chẳng hiểu sao con ốc nhồi lại béo và ngon khi mùa thu về. Ngày nhỏ cứ
mỗi dịp trung thu, mẹ mình lại mua ốc mít về luộc hoặc nấu một nồi bún
ốc gọi là ''ăn ốc trông trăng''.
Lòng hoài niệm nhớ về tuổi thơ khi mỗi buổi sáng lại ra vỉa
hè hiệu kem Phi điệp ăn 1 hào bún ốc nguội. Bún ốc nguội là bún ốc mà
nước dùng để trong hũ sành. Khi có người ăn bà bán bún nhể vào chiếc bát
con chừng 4,5 con ốc bằng đầu ngón tay cái , béo mẫm , sau đó dùng
chiếc muôi tiện bằng một gióng của cây trúc mầu vàng ươm múc ra chừng 2
muôi chan vào . Khi ăn, mọi người sêu một chút ớt bột chưng thả vào
bát ốc. Từng váng ớt nhỏ quay vòng cùng những sợi lá tía tô nâu nâu thái
mỏng tỏa mùi thơm thật hấp dẫn. Gắp từng vắt bún nhỏ trắng tinh ,
xoe tròn mỏng mảnh thả nhẹ vào bát nước rồi đưa lên miệng. Chao ôi,
ngon! Từng sợi bún mềm trơn trong miêng quyện với nước ốc ngọt lừ, chua
dịu của dấm bỗng thật hấp dẫn. Bao giờ mình cũng dành những con ốc để ăn
cuối cùng. Chà chà, con ốc giòn mềm sần sật quyện với tương ớt chưng
thơm thơm, cay cay vừa ăn vừa sụt sịt sao mà sướng thế. Bây giờ ở Hà nội
ít người bán bún ốc nguội. Hình như chỉ còn một hàng ngồi ở viả hè phố Ô
quan chưởng. Hàng bún ốc này ngon. Đó là nơi hẹn nhau đến thưởng thức
bún ốc của trai thanh gái lịch , những người Hà nội sành ăn và cả những
người Hà nội xa quê về thăm tổ quốc. Đa số người Hà nội bây giờ ăn bún
ốc nóng.
Hôm nay ra chợ mua 2 kg ốc. Con bé bán ốc quả quyết là ốc
đồng, không phải ốc nuôi. Kinh nghiệm bao nhiêu năm làm nội trợ của mình
cũng biết đấy là ốc đồng thật vì con ốc mỏng vỏ , vàng mỡ màng. Con ốc
nuôi thì vỏ dầy và đen, nhìn thô kệch lắm.
Muốn có một bát bún ốc ngon thì con ốc phải béo và sạch. Muốn
ốc béo và sạch thì khi mua phải chọn con ốc nhồi đầy miệng, vỏ mỏng
vàng ươm. Các cụ ngày xưa gọi là sáng mầu. Mang ốc về ngâm khoảng 3
tiếng trong một cái chậu hay cái nồi nhôm vì ốc kị đồ bằng kim loại, se
nhả nhanh chất bẩn , nhớt và ra hết mùi tanh. Rửa sạch ốc cho vào ngâm
lại với nước lã trong đó có đập một quả trứng gà trên 1 kg ốc, hoặc nếu
không có trứng gà thì thả vào một dúm bột mỳ cũng được, ngâm thêm dăm
tiếng nữa. Lúc này con ốc đã sạch bụng, sạch nhớt sẽ hút chất bổ trong
trứng. Khi ăn con ốc giòn , không dai, không tanh và ngọt. Lúc nhể ra
con ốc béo trắng nằm tròn thu lu như chiếc chén hạt mít uống rượu của
các cụ.
Luộc ốc cũng phải canh cho nồi ốc sôi bùng lên rồi nhắc xuống
ngay vì đun lâu quá ốc sẽ dai. Sau đó đặt nồi lên bếp cho vào một chút
mỡ, phi phần trắng của củ hành tươi thơm lên, cà chua thái hình miếng
cau cho vào xào xơ với bột canh rồi đổ nước luộc ốc vào. Khi canh sôi
cho tiếp chút dấm bỗng vào. Nếm thấy ngọt, chua dịu thơm mùi bỗng là
được.
Bún ốc ngon mà thiếu ớt bột chưng là vứt. Chưng ớt cũng phải
có kinh nghiệm không có ớt cháy đen, nhìn xấu và đắng. Cho một ít mỡ và
chảo phi mấy cọng củ hành tươi thơm lên. Khi mỡ sôi đổ vào ớt bột đã để
sẵn trong bát sứ, ớt sẽ gần như giữ nguyên mầu đỏ hấp dẫn.
Ăn bún ốc nóng phải ăn với bún sợi to mới ngon. Rau sống thì
phải có xà lách, rau thơm, rau mùi, tía tô và không thể thiếu những
khoanh cây chuối non thái mỏng tang. Nhìn đĩa rau sống xanh như ngọc
thấp thoáng những khoanh cây chuối non ấy ta thấy giống như những vầng
trăng khuyết đang lơ lửng trên bầu trời.
Gắp bún vào tô, nhể vào đấy khoảng 4, 5 con ốc ,rắc ít tía tô
thái mỏng chan nước ốc với vài miếng cà chua đỏ au. Thế là ta đã có
được một bát bún ốc mang hương vị mùa thu, hương vị Hà nội rồi đấy. Nào
xin mời các bạn!
Nguồn: Nguyen Tuyet Hanh blog
QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI
Hoàng Kim
Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/Qua
đèo chợt gặp mai đầu suối/Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành. Tôi biết bài
thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện
ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý
sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà không thấy sách báo
nào nhắc đến hơn ba mươi năm qua.
Thuở ấy, tôi mới
mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa
đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới
hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo
có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của
bộ trưởng Xuân Thủy và bí thư tỉnh ủy Quảng Bình vừa tới. Họ đã xuống
xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ
trên.
Tôi đã giới thiệu những bài thơ Qua đèo Ngang
xướng họa này tại trang DAYVAHOC (http://blogtiengviet.net/DAYVAHOC),
THƠ CHO CON (http://my.opera.com/hoangkim1) và thầy tôi Nguyễn Khoa Tịnh
đã có bài thơ cảm động "Em ơi em can đảm bước chân lên!" viết từ thuở
ấy! Tôi đã đăng ở trang này (http://blog.360.yahoo.com/hoangkim_vietnam)
để minh chứng sự thật đó.
Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ "Nguyên tiêu" nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ "Trung Nam Hải" từ dịp ấy.
Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu
bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển
thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ trên của Bác do nhà Hán
học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế
nhưng bản dịch mới có khác một chữ so với bài mà tôi được đọc và nghe
bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách
lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản
dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950
nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi
tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.
Bác ra nước ngoài từ
đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong
vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí
mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông
rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại
tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các
sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn
lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất,
vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là
phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.
“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng
không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ "Bách lý tầm quân vị ngộ
quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân" và không đơn giản
dịch là "Tìm bạn không gặp". Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất
lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại
đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp
tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng
Việt Nam "chiến đấu trong vòng vây"; Những tổn thất và sai lầm trong cải
cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù
hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước
lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.
Ý tứ
trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời
nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/Mang hài đạp phá lãnh đầu
vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài
thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày
mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những
cành mai trong vườn nhà.
Bác Hồ cũng vượt vòng vây
phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc
tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường
về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những
vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông
phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng
trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một
nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ
Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước
lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong,
nước càng mát, mai càng nở rộ.
Ngày xuân, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai.
Nguồn: Hoàng Kim Blog
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con