Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

Đọc lại Hiểu đời


DẠY VÀ HỌC. Tôi đọc lại "Đọc Hiểu đời của Chu Dung Cơ". Đây là một trong số những bài viết được nhiều người xem. Đọc lại càng thấm thía lời ông: “ Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn. Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình, biết đủ thì lúc nào cũng vui. Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt, tự tìm niềm vui. Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui… Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao…’’. "Lời bình của Thung Dung", "Con chim ngập trong đống phân" và "Bàng Đức mang quan tài ra trận" cũng là những chuyện cực ngắn thú vị.

ĐỌC "HIỂU ĐỜI" CỦA CHU DUNG CƠ


Ngoc Phuong Nam Posted on 26.09.2010


NGỌC PHƯƠNG NAM. Dạy và học Thung dung đã đạt một triệu lượt người đọc. Trong đó Đọc Hiểu đời của Chu Dung Cơ là một trong số những bài viết được nhiều người xem. Tôi đọc lại bài này và càng thấm thía lời ông: “ Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn. Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình , biết đủ thì lúc nào cũng vui. Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt, tự tìm niềm vui. Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui… Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao…’’


HIỂU ĐỜI


Chu Dung Cơ


Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh nhưng chỉ có hiểu đời thì mới sống thanh thản, sống thoải mái.


Qua một ngày mất một ngày.

Qua một ngày vui một ngày.
Vui một ngày lãi một ngày

Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng


Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng mang đến, khi chết chẳng mang đi.


Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn.

Nếu dùng tiền mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ!

Người khôn biết kiếm tiền biết tiêu tiền.

Làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó

“Quãng đời còn lại càng ngắn thì càng phải làm cho nó phong phú”. Người già phải thay đổi quan niệm cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh”, hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao chất lượng cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của tuổi già.


Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khỏe là của mình.


Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn,


Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một chút hỏi vài câu là thấy đủ rồi.


Con tiêu tiền cha mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền con chẳng dễ.


Nhà cha mẹ là nhà con; nhà con không phải là nhà cha mẹ.


Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp.


Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.


Ốm đau trông cậy ai? Trông cậy con ư? Nếu ốm dai dẳng chẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu (cửu bệnh sàng tiền vô hiếu tử). Trông vào bạn đời ư? Người ta lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi.


Trông cậy vào đồng tiền ư? Chỉ còn cách ấy.


Cái được, người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm. Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.


Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình (tỷ thượng bất túc tỷ hạ hữu dư), biết đủ thì lúc nào cũng vui (tri túc thường lạc).


Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt, tự tìm niềm vui.

Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui. Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như có cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Huống hồ nghĩ ra, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.

Quá nửa đời người dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc nào muốn thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống vì ý thích hay không thích của người khác, nên sống thật với mình.


Sống ở trên đời không thể nào vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm cho khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.


Tuổi già tâm không già, thế là già mà không già; Tuổi không già tâm già, thế là không già mà già. Nhưng xử lý một vấn đề thì nên nghe già.


Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức. Ăn uống quá thanh đạm thì không đủ chất bổ; quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ; quá ồn áo thì khó chịu…. Mọi thứ đều nên “vừa phải”.


Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn tham uống…).

Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh).
Người khôn phòng bệnh (chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống).

Chất lượng cuộc sống của người già cao hay thấp chủ yếu tùy thuộc vào cách tư duy, tư duy hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng tư duy hướng lợi để thiết kế cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và sự tự tin, cuộc sống có hương vị; tư duy hướng hại là tư duy tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết.


Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới khám chữa bệnh … Tất cả đều là muộn.


Chơi là một trong những nhu cầu cơ bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi ưa thích nhất, trong khi chơi hãy thể nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh


“Hoàn toàn khỏe mạnh”, đó là nói thân thể khỏe mạnh, tâm lý khỏe mạnh và đạo đức khỏe mạnh. Tâm lý khỏe mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao thiệp; đạo đức khỏe mạnh là có tình thương yêu, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu.


Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong hoạt động xã hội, thể hiện giá trị của mình, đó là cuộc sống lành mạnh.


Cuộc sống tuổi già nên đa tầng đa nguyên, nhiều màu sắc, có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình bạn làm đẹp thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc.


Con người ta chịu đựng, hóa giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất. Quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống thế nào.


Tại sao khi về già người ta hay hoài cựu (hay nhớ chuyện xa xưa)? Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân cuối, tâm linh cần trong lành, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tim lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thuở nhỏ, cùng bạn học nhớ lại bao chuyện vui thời trai trẻ, có như vậy mới tìm lại được cảm giác của một thời đầy sức sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn của tuổi già.


Nếu bạn đã cố hết sức mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó! Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt. Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình một dấu chấm hết thật tròn.


Lời bình của Hoàng Kim


THUNG DUNG. Chu Dung Cơ khi lên nhậm chức thủ tướng Trung Quốc, trước họa tham nhũng và chống đối, ông đã làm “Bàng Đức mang quan tài ra trận”. Dịp đó, chuyện cực ngắn Trung Quốc loan truyền câu chuyện vui “Con chim ngập trong đống phân”. Không hiểu sao, liên tưởng thân phận của những người bị vùi dập trong cách mạng văn hóa nay nhờ ơn tri ngộ của Đặng Tiểu Bình kéo lên từ tủi nhục, tôi lại thấy lo cho ông. Liệu ông có quá “đại ngôn” để rước họa vào thân. Sau này, khi thấy ông xuất xử đúng mực, hợp lý,”dĩ công vi thượng” (đặt việc công lên trên) “tận nhân lực” (làm hết mình) và khéo lui đúng lúc thì mới thấy ông quả là người hiểu đời. Vương Mông, người cùng thời với ông, viết “Triết lý nhân sinh của tôi” dài mà không thừa. Ông (Chu Dung Cơ) thì viết “Hiểu đời” ngắn mà không thiếu. Tôi thích nhất câu” Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn”. Nhưng sao ông lại chỉ nói đến người già trong khi những lời ông đáng suy ngẫm cho lớp trẻ lắm chứ ?.


BÀNG ĐỨC MANG QUAN TÀI RA TRẬN


Bàng Đức và Mã Đại là những tướng giỏi của Mã Siêu. Trước đó, Mã Siêu trả thù cho cha là Mã Đằng bị Tào Tháo giết hại đã khởi binh Tây Lương cùng Hàn Toại là người em kết nghĩa của cha đánh thắng Tào Tháo nhiều trận lừng lẫy nhờ sự dũng cảm thiện chiến. Sau vì Mã Siêu bị trúng kế ly gián của Tào Tháo nên thua. Mã Siêu rốt cục lại rơi vào kế của Khổng Minh nên cùng Mã Đại về hàng Lưu Bị. Bàng Đức thế cô buộc phải hàng Tào Tháo.


Từng trãi chiến trân và biết dung nạp nhân tài, Tào Tháo đã không phân biệt đối xử mà trọng đãi Bàng Đức hết mực. Bàng Đức cảm ơn tri ngộ của Tào Tháo nên quyết lấy cái chết để báo đền . Ông đã khiêng quan tài ra trận quyết tử chiến với Quan Vũ, một danh tướng khét tiếng vũ dũng mà mọi tướng lĩnh của Tào Tháo đều e ngại khi đối trận. Sau này, Bàng Đức bị Quan Vũ giết chết.


Nhiều năm sau, Quan Vũ, Lưu Bị, Khổng Minh lần lượt chết, Hán Trung nhà Thục bị nhà Ngụy (họ Tào) thôn tính, con cháu của Bàng Đức đã truy lùng, tận diệt dòng họ của Quan Vũ để báo thù.


Thủ tướng Chu Dung Cơ sau này cũng đã làm người đời liên tưởng “Bàng Đức mang quan tài ra trận”.


CON CHIM NGẬP TRONG ĐỐNG PHÂN


Trời quá lạnh, một con chim bị cóng rơi xuống cánh đồng.


Trong lúc chim nằm bất động, một con bò đi qua đại tiện lên thân mình nó.


Chim được phân bò ủ ấm dần, tỉnh lại, thấy ấm áp và hạnh phúc, nó cất tiếng hót vui mừng.


Một con mèo đi qua, nghe tiếng chim hót liền tìm kiếm và phát hiện chim giữa đống phân, mèo bới phân kéo chim ra ăn thịt.


Bài học:

1. Không phải ai ỉa vào mình cũng là kẻ thù của mình.
2. Không phải ai kéo mình ra khỏi đống phân cũng là bạn mình.
3. Khi đang ngập ngụa trong đống phân thì tốt nhất là ngậm cái mồm lại

(GS Mai Văn Quyền: Không phải của mình mà của Hà Triều Hiệp đấy! chuyện cực ngắn của Tàu đấy !)


Nguồn
: NGỌC PHƯƠNG NAM

Google.com.vn tìm kiếm "Đọc Hiểu đời của Chu Dung Cơ" http://hoangkimvietnam.wordpress.com/2010/09/26/doc-hieu-doi-cua-chu-dung-co/ của Google. Đây là ảnh chụp nhanh của các trang được hiển thị vào 1 Tháng Mười 2012 21:20:00 GMT.

Mẹo: Để tìm nhanh cụm từ tìm kiếm của bạn trên trang này, nhấn Ctrl+F hoặc ⌘-F (Mac) và sử dụng thanh tìm.

TIN ĐỌC NHANH


Chuyện cực ngắn Hiệu Minh võ mồm giữa Joe và Paul


Từ đầu tháng Mười đến nay trời mưa nắng vần vũ. Blog GS. Nguyễn Lân Dũng đăng loạt bài hay "Vì thiếu văn hóa từ chức"; "Thực trạng giáo dục và những kiến nghị"; "Về biến đổi khí hậu". Blog Hiệu Minh cũng có chuyện cực ngắn khá nhiều người đọc
Võ mồm giữa Joe và Paul.


Trở về trang chính

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG

(Hoàng Kim để tôi đọc lại)
DẠY VÀ HỌC

(trang tình yêu, văn hóa giáo dục,
khoa học cây trồng và du lịch Việt)
HỌC MỖI NGÀY

(Những bài tuyển chọn về văn hóa giáo dục
lịch sử, thơ văn)
DẠY VÀ HỌC Ở ĐHNL HCM

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012

Đọc lại và suy ngẫm

 
DẠY VÀ HỌC. Thầy Nguyễn Lân Dũng là chuyên gia cao cấp  của Viện Vi Sinh vật  và Công nghệ Sinh học thuộc Trường Đại học Quốc gia Hà Nội vừa có bài viết  "Thực trạng giáo dục và những kiến nghị"  Đây là tài liệu giàu thông tin, mạch lạc và có hệ thống về thực trạng giáo dục Việt Nam và những kiến nghị. Trước đèn (ảnh) đọc lại và suy ngẫm (Hoàng Kim). 

Thực trạng giáo dục và những kiến nghị

GS. Nguyễn Lân Dũng

Nhân dịp khai giảng niên học 2012-2013, trong thư gửi các thầy cô giáo và học sinh , sinh viên cả nước, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã viết: "Năm học 2011-2012 vừa qua, ngành Giáo dục đã nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác quản lý giáo dục có những đổi mới theo hướng tăng cường phân công, phân cấp, tăng quyền tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm và kiểm tra, giám sát trong quản lý giáo dục các cấp. Chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục vùng khó khăn có mặt được nâng lên. Công tác xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục thu được kết quả tích cực. Nhiều học sinh, sinh viên đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế.Tôi nhiệt liệt biểu dương sự nỗ lực cố gắng và những kết quả của ngành Giáo dục, nhất là đội ngũ các thầy giáo, cô giáo tâm huyết, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp "trồng người", các em học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vượt khó vươn lên trong học tập."


Nhìn lại trong10 năm qua (2001 - 2010), quy mô đào tạo nghề đã tăng 3,08 lần, trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,69 lần; quy mô giáo dục đại học tăng 2,35 lần. Năm 2010, số sinh viên cao đẳng và đại học trên một vạn dân đạt 227; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40%, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, nâng dần về chất lượng, từng bước khắc phục một phần bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục và phát triển các cấp học và trình độ đào tạo. Trong 10 năm qua, tỷ trọng quy mô đào tạo ngoài công lập trong tổng quy mô đào tạo tăng: sơ cấp nghề tăng từ 28%5 lên 44%, trung cấp và cao đẳng nghề tăng từ 1,5% lên 5,5%, trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 5,6% lên 27,2%, cao đẳng tăng từ 7,9% lên 19,9%, đại học tăng từ 12,2% lên 13,2%. Cơ sở vật chất nhà trường được cải thiện. Tỷ lệ phòng học kiên cố tăng từ 52% năm 2006 lên 71% năm 2010. Nhà công vụ cho giáo viên và ký túc xá cho học sinh, sinh viên đã được ưu tiên đầu tư xây dựng và tăng dần trong những năm gần đây.Trong 10 năm qua, những thành tựu của giáo dục nước ta đã đóng góp quan trọng trong việc nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.

Bên cạnh các thành tựu đã đạt được nền giáo dục nước ta đã bộc lộ ngày càng rõ những hạn chế, bất cập. Nhân tham dự ngày khai trường tại Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu lên một phần những hạn chế bất cập này. Thủ tướng chỉ rõ : "giáo dục và đào tạo nước ta vẫn còn những bất cập, yếu kém, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thực sự gắn với nhu cầu của xã hội. Giáo dục kiến thức về xã hội, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng thực hành còn kém, chưa phát huy khả năng tự học, tính chủ động, sáng tạo của người học; việc tham gia vào các hoạt động xã hội của học sinh, sinh viên còn nhiều hạn chế…"


Chúng ta hãy xem về những hạn chế, bất cập mà Thủ tướng đã nêu lên:

Vì chất lượng GDPT chưa cao (mặc dầu tỷ lệ thi tốt nghiệp là rất cao) nên đầu vào của các trường Đại học và Cao đẳng chưa tương xứng với yêu cầu. Trong khi các ngành khoa học cơ bản là xương sống của nền khoa học nước nhà thì số thí sinh thi vào các ngành khoa học cơ bản ngày càng ít , với chất lượng ngày càng thấp. Đặc biệt với các ngành Khoa học xã hội thì với kết quả hàng ngàn bài thi môn Lịch sử bị điểm 0 cho thấy một thực trạng hết sức đáng lo ngại về trình độ Tú tài của học sinh ta hiện nay. Chưa nói đến những yêu cầu cao siêu, chỉ xem một bức thư xin nghỉ học của một học sinh lớp 10, tuy chỉ có mươi dòng nhưng ngoài việc chữ rất xấu, viết hoa tùy tiện , còn thật đáng xấu hổ khi mắc những lỗi chính tả mà có lẽ học sinh tiểu học cũng không thể măc phải (như viết ngỉ học, hôm lay, đơn lày, chong lúc. có ngịch, xa xút, em ngĩ, học xinh, nhà chường, cho lên, phụ hunh...) .

Anh Jeffrey Thái một Việt kiều ở Mỹ đã viết trên blog của mình như sau: "Tôi là người sống xa xứ đã lâu, gần hai thập kỷ, và đã có một khoảng thời gian rất dài không có điều kiện để đọc chữ Việt, cho mãi đến khi chúng xuất hiện trên mạng Internet những năm gần đây. Khi đọc lại tiếng Việt của ngày hôm nay, tôi đã "choáng váng" mà nhận ra rằng: Nó đã xuống cấp nghiêm trọng, cụ thể nhất ở khâu chính tả và diễn đạt, ở những bài viết mà tôi có dịp được đọc qua. Tham gia các trang mạng xã hội Việt trong thời gian hơn một năm, tôi hiếm hoi đọc thấy một bài viết mà không có sai phạm về mặt chính tả và việc diễn đạt hoàn toàn trôi chảy theo đúng ngữ pháp tiếng Việt... Tôi vẫn còn nhớ vào những ngày còn đi học ở VN, tôi vẫn luôn được dạy để nhớ rằng: Việc viết sai chính tả là một điều cực kỳ đáng xấu hổ. Thế mà, giờ đây dường như mọi người "thoải mái" viết sai chính tả một cách rất... vô tư".

Năm học 2009-2010 cả nước có tới 149 trường Đại học và 227 trường Cao học, thu hút tới 1,93 triệu sinh viên. Không hiểu nổi trong 376 ngôi trường này có bao nhiêu phòng thí nghiệm, bao nhiêu xưởng thực hành? Cũng không hiểu trong số 70 558 thầy cô giáo đang giảng dạy tại các trường này có bao nhiêu người có trình độ Thạc sĩ hay Tiến sĩ. Kiểu Cơm chấm cơm và Học chay rất phổ biến này làm sao có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Rất nhiều trường mở Khoa Môi trường nhưng không một sinh viên nào về nơi công tác đủ khả năng thiết kế một công trình xử lý rác, xử lý nước thải, vậy thì biết làm gì khi các Sở tài nguyên Môi trường không còn biên chế để nhận thêm cán bộ. hàng loạt sinh viên Đại học sau khi tốt nghiệp đã thất nghiệp vì không đủ tiền chạy chỗ vào công sở, hoặc không đủ khả năng để nhận việc ở các công ty, xí nghiệp tư nhân. Không ít sinh viên đã phải đi tiếp thị mỳ tôm hay các việc làm tương tự để kiếm sống. Việc Nhà nước cho vay tiền để học Đại học không hiểu sinh viên sau khi ra trường sẽ lấy đâu ra tiền để trả lại cho Nhà nước? Tôi trộm nghĩ: việc đông đảo thanh niên ham thích được học Cao đẳng, Đại học là chuyện rất đáng quý, nhưng nếu không đủ thày cô dạy cho có nghề hẳn hoi thì thà cho học ngoại ngữ còn hơn.

Hiện nay trên internet có vô vàn bằng sáng chế, phát minh sau thời gian bảo hành được công bố rộng rãi. Chỉ cần biết ngoại ngữ là có thể sở hữu và có thể tự lập công ty sản xuất ra sản phẩm theo các công thức đã nắm được (!). Thật khôi hài khi một công ty tư nhân bé tý tẹo nhưng khi tuyển cán bộ ngoài tấm bằng chính quy ra còn đòi hỏi phải có thêm cả bằng Ngoại ngữ và bằng Tin học. vậy mà có 3 tấm bằng ấy rồi cũng đâu có dễ xin được việc làm. Hiện nay là như vậy, đến năm 2020 dự kiên sẽ có khoảng 350-400 sinh viên tính trên 1vạn dân, không hiểu nếu không đổi mới chất lượng đào tạo thì ngay tìm việc đi "tiếp thị mỳ tôm" cũng đau có dễ (!). Ngoại ngữ thiếu liên thông, cho nên đầu cấp học thường vẫn phải học lại từ đầu ây, bi, xi và vì vậy sau khi tốt nghiệp Cao đẳng, Đại học vẫn chưa sử dụng được thành thạo bất kỳ một ngoại ngữ nào.
Trong khi các trường Đại học thiếu điều kiện nghiên cứu cho cả thày lẫn trò thì Nhà nước lại cho thành lập hàng loạt các Viện, các Trung tâm nghiên cứu bên ngoài Đại học. Không kể các nước phát triển như ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Úc...mà ngay các nước châu Á như Thái lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapor, Malaysia ... cũng chẳng có ai làm như vậy ? Tại sao không đưa Viện Toán về Khoa Toán Đại học quốc gia, nay lại thêm một Viện Toán cao cấp để GS.Ngô Bảo Châu xuân thu nhị kỳ đưa chuyên gia về giảng dạy (chả nhẽ mong có thêm một giải Fields nữa hay sao?).

Lại nói về phong trào "Hai không" được phát động rầm rộ cách đây không lâu. Khi ấy có trường với tỷ lệ tốt nghiệp là 0%, nhưng chính ngôi trường ấy năm vừa qua lại đỗ tốt nghiệp tới 100%. Tôi hỏi một cháu ở Hà Tây cũ về kỳ thi vừa qua. Cháu nói thày cô cho mang phao thoải mái vào phòng thi, chỉ cấm mang sách giáo khoa thôi. Vậy thì đâu chỉ có một Đồi Ngô ở Bắc Giang mà có cả Rừng Ngô trong cả nước. Kỷ luật các thày cô coi thi ở Đồi Ngô thật không công bằng, thật ra đấy là chủ trương của lãnh đạo Nhà trường chứ đâu có phải là hành động tự phát của các thày cô này.

Một bất cập rất lớn là Chương trình và sách giáo khoa. Vấn đề nay tôi sẽ xin nói thêm ở phần sau.



Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về giáo dục và công nghệ đã đưa chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo vào cuộc sống; Từ tinh thần Nghị quyết 40/2000/QĐ10 của Quốc hội khóa X, nhà trường đã đổi mới nội dung chương trình giáo dục phổ thông; cùng nhiều chủ trương chính sách khác đã góp phần đổi mới nhà trường theo nhu cầu xã hội. Nhưng sự nổ lực của nhà trường trong thời gian qua vẫn còn những giới hạn so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế


Cần thiết phải thực hiện công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện để góp phần nâng cao hiệu quả đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành một cách căn cơ và bền vững. Xã hội đã có những thay đổi về cơ chế hoạt động, về hệ thống giá trị và, về nhu cầu cuộc sống;tâm sinh lý lứa tuổi học sinh và tâm lý xã hội đã có những đổi thay; điều kiện hoạt động của xã hội và của từng gia đình thay đổi, khoa học kỹ thuật phát triển, công nghệ thông tin được sử dụng rộng khắp trong từng lãnh vực cuộc sống con người… Nên chúng ta không thể tiếp tục sử dụng nội dung chương trình, phương pháp dạy học, cơ chế tổ chức quản lý, phương thức đánh giá của nhà trường theo quan niệm giáo dục và hệ thống chuẩn mực của những năm trước.

Theo TS Huỳnh Công Minh thì thực tế cuộc sống đòi hỏi phải đổi mới toàn diện, đồng thời và đồng bộ trên tất cả các yếu tố cấu thành của hoạt động giáo dục từ mục tiêu giáo dục, nội dung chương trình đến phương pháp dạy học, cơ chế tổ chức quản lý và phương thức đánh giá.

- Mục tiêu giáo dục phải đổi mới mạnh mẽ từ con người khoa bảng thành con người thực tế; từ mục tiêu nhồi nhét kiến thức hàn lâm chuyển thành năng lực làm chủ cuộc sống; từ cơ chế độc quyền với từng hoạt động đơn lẻ chuyển sang phục vụ xã hội đa dạng, cạnh tranh với tinh thần hợp tác, thân thiện.

- Nội dung chương trình phải đổi mới từ phân hóa theo môn học thành tích hợp theo mục tiêu đào tạo; giảm lý thuyết từ chương, tăng cường thực tế; đổi mới mạnh mẽ từ nhà trường khép kín, gò bó sang giáo dục xã hội, mở rộng cửa trường đưa nhà trường thâm nhập vào cuộc sống.


- Phương pháp dạy học phải đổi mới từ dạy số đông sang dạy cá thể, dạy cách học; đổi mới từ dạy áp đặt một chiều của người dạy sang tương tác đa chiều của người học với thầy cô, bạn bè, sách vở, trong gia đình và ngoài xã hội; không dừng lại ở lý thuyết, minh họa mà vươn tới hoạt động thực hành, trải nghiệm, làm sinh động và hiệu quả hơn nội dung giáo dục để đạt yêu cầu mục tiêu giáo dục tốt nhất; làm cho học sinh thích thú, chủ động và tích cực tự tìm tòi học tập, nâng cao năng lực tự học, học suốt đời, học ở mọi lúc mọi nơi.


- Đánh giá quá trình dạy học vừa mang tính công nhận nhưng quan trọng hơn còn có tác dụng định hướng giáo dục rất hữu hiệu – “Thi cử thế nào, thầy và trò dạy và học như thế ấy!” Phải đổi mới mạnh mẽ hoạt động đánh giá, coi trọng đánh giá của giáo viên ngay trong quá trình dạy học, đây là hoạt động chủ yếu thay vì tập trung thi cử cuối khóa nặng nề, đối phó, hình thức, thiếu thực chất thoát ly mục tiêu đào tạo. Phải tạo điều kiện cho người học tự đánh giá để tự hoàn thiện mình, phải phối hợp với phụ huynh đánh giá học sinh để tạo sự thống nhất hệ thống giá trị giữa nhà trường, gia đình và xã hội.


- Cơ chế tổ chức quản lý, phải đổi mới mạnh mẽ từ quan liêu bao cấp sang cơ chế tự chủ nhà trường, không chờ đợi, ỷ lại vào cấp trên mà phải tạo điều kiện cho từng giáo viên sáng tạo, tự giác chấp hành luật pháp, thực hiện quy chế với ý thức tổ chức kỷ luật cao, đồng thời chủ động thể hiện từng động tác giáo dục phù hợp và hiệu quả với từng học sinh trong quá trình dạy học như những nhà giáo dục thực thụ.


- Thiết chế tổ chức nhà trường phải đổi mới phù hợp với quan điểm đổi mới, giảm sỉ số trong lớp từ 35, 45 học sinh xuống còn 20, 30 học sinh; học sinh học tập và hoạt động cả ngày trong trường (2 buổi/ngày); giáo viên phải có chế độ làm việc cả ngày (8 giờ) theo đúng quy trình lao động của ngành nghề, nghiên cứu tài liệu, tiếp cận học sinh, nắm chắc tâm sinh lý lứa tuổi, hoàn cảnh, soạn bài, giảng bài, ra bài tập kiểm tra, chấm bài, chữa bài, đánh giá nhận xét từng học sinh chu đáo, đúng mực…thay vì chỉ đến trường theo giờ dạy, vì lao động của nhà giáo là lao động cao cấp, phức tạp, khác với các ngành nghề lao động giản đơn.

Tôi đồng ý về cơ bản với những quan điểm trên đây và thấy không cần bổ sung gì thêm .

Tôi chỉ muốn dẫn chứng về một chuyên ngành mà tôi am hiểu . Đấy là chương trình và sách giáo khoa Sinh học ở bậc phổ thông: Bộ sách giáo khoa Sinh học là cố gắng rất lớn của nhiều tác giả, nhưng rất tiếc là chương trình lại không hợp lý: Rõ ràng là rất nhiều vấn đề nhưng các vấn đề đưa ra ở đây rất "nông". Tôi đã mua trên 70 cuốn sách giáo khoa Sinh học ở bậc phổ thông ở các nước và thấy chương trình ở ta chẳng giống nước nào cả (!). Vừa nặng lại vừa thấp. Có lẽ đó là do chịu ảnh hưởng của sách giáo khoa Sinh học trước đây của Liên Xô. Hầu như tất cả các môn học ở Khoa Sinh Trường đại học Sư phạm đều có trong chương trình phổ thông. Như vậy có thể thấy trong cuốn Sinh học chương trình phổ thông có quá nhiều nội dung, quá nhiều chi tiết không cần thiết trong khi số giờ lại quá ít. Tôi đã thử hỏi nhiều em đang học cấp III và thấy các em hiểu biết rất mù mờ và hầu như chả mấy em thích thú. Em nào định thi vào Sinh, vào Y, vào Dược thì đi tìm sách Đại học để đọc thêm, vì phải cạnh tranh rất cao trong khi sách phổ thông quá sơ lược (nhiều vấn đề nhưng dàn trải, vấn đề nào cũng rất "nông").Hơn nữa, ra đề thi Tốt nghiệp PTTH nếu theo nguyên tắc không được hỏi trùng các đề đã ra thì thật vô cùng khó, vì cuốn sách giáo khoa lớp 12 quá... mỏng! Vấn đề nào hay đã bị hỏi trong các kỳ thi trước hết rồi. Các em đã học quá nhiều chuyên ngành (động vật không xương, động vật có xương, thực vật bậc thấp, thực vật bậc cao, vi sinh vật học, giải phẫu và sinh lý người, di truyền học, tiến hóa học, sinh thái học...), trong khi số lượng giờ dạy quá ít ỏi mỗi tuần. Vừa khó hiểu, vừa khó nhớ, lại không muốn học (vì ít khi có trong số các môn thi tốt nghiệp) thì hiểu sao được? Đã không hiểu thì còn nói gì đến nhớ (thế là lại phải cầu cứu đến "phao"). Nội dung di truyền học là rất khó, nếu giáo viên không hiểu kỹ thì rất khó làm cho học sinh có thể hiểu được. Xem kết quả các bài thi thì thấy rất rõ chuyện này. Và liệu rằng một cháu 12 tuổi ở nước ta có nhớ nổi sơ đồ cắt ngang của một thân cây trưởng thành với các thuật ngữ khó hiểu như vỏ, tầng sinh vỏ, thịt vỏ, mạch rây, tầng sinh trụ, mạch gỗ? Cháu 13 tuổi có thể nhớ các bộ phận thùy khứu giác, thùy thị giác, não trước, tiểu não, hành tủy, tủy sống của con thằn lằn?

Tôi thấy cần tham khảo chương trình các nước. Tôi chú ý đến chương trình của hai nước: Pháp và Nepal. Pháp là một nước khoa học phát triển nhưng học sinh phổ thông không học Sinh học (Biologie) mà chỉ học môn Khoa học về sự sống và về Trái đất (Sciences de la Vie et de la Terre). Đó là cách dạy tích hợp những kiến thức về sự sống và về Trái đất nói chung. Về sự sống, học sinh sẽ hiểu khá sâu về tiêu hóa, tuần hoàn, thần kinh, hô hấp, tiêu hóa, di truyền, tiến hóa... của thế giới sinh vật chứ không học sâu về bất kỳ nhóm sinh vật nào. Nhờ có thời gian nên có thể hiểu rất sâu cả những tiến bộ mới mẻ về di truyền, thậm chí về cả sinh học phân tử và công nghệ sinh học. Còn ở Nepal, một nước rất nghèo, họ lại coi kiến thức phổ thông hết lớp 10 là đủ rồi (thế hệ chúng tôi học hết phổ thông có 9 năm thôi). Họ dành hai lớp 11 và 12 để phân ban sâu. Chỉ có 4 phân ban: Quản trị & Kinh doanh, Xã hội & Nhân văn, Toán-Lý và Hóa- Sinh. Chỉ có ban Hóa-Sinh mới học Sinh học mà thôi. Chính vì vậy tôi giật mình khi mua 2 cuốn sách giáo khoa Sinh học lớp 11 và lớp 12, mỗi cuốn trên 700 trang. Thế thì cần gì phải dạy thêm, học thêm nữa? Các nước Anh, Pháp, Australia... đều dạy môn Sinh học theo phương pháp tích hợp. Trước đây, ta đã mời chuyên gia Australia sang giúp xây dựng một chương trình sinh học theo hướng tích hợp. Không hiểu vì sao lại không được sử dụng! 


Tôi thấy cần sớm thay đổi chương trình Sinh học ở bậc phổ thông để không chênh lệch nhiều với các nước khác trên thế giới. Kiên quyết dạy theo phương pháp tích hợp. Không đi sâu vào từng nhóm sinh vật và càng không học phân loại (vừa khó nhớ lại vừa không cần thiết). Dạy sao cho học sinh có được hiểu biết chung về sự sống, kể cả những khám phá mới nhất về sự sống (tất nhiên bằng những khái niệm dễ hiểu và dễ nhớ). Chi tiết nào thầy không nhớ nổi thì đừng bắt học sinh phải nhớ. Đừng ngụy tạo ra quan điểm thay đổi như thế thì giáo viên không dạy được (!). Nếu thấy cần cho học sinh đa số rẽ ngang, không học tiếp đại học thì nên theo hướng phân ban sâu như Nepal. Chuyện này cần thảo luận và cân nhắc kỹ lưỡng. 


Còn việc in Sách Giáo khoa lại là chuyện của từng nhóm tác giả và từng nhà xuất bản. Bộ sách nào không theo sát chương trình thì không được in, nhưng trình bày có thể rất khác nhau (như nhiều nước khác). Lựa chọn bộ sách nào để dạy, để học là tùy thầy cô giáo và học sinh. Chỉ có cạnh tranh như vậy mới mong sớm có được những bộ sách giáo khoa tốt. Đây là một sự cạnh tranh rất khoa học, rất lành mạnh. 


Tôi nghe nói đến năm 2015 mới bàn lại Chương trình giáo dục phổ thông. Sau đó là thí điểm chương trình. Rồi thí điểm viết lại bộ sách giáo khoa, sau đó lại thí điểm sử dụng sách giáo khoa. Có thể khi đó tôi không còn tồn tại nữa rồi. Đâu cần nhiều tiền bạc như dự án vừa qua. Bộ nên dựa vào các Hội Khoa học chuyên ngành. Các Hội này sẽ lựa chọn ra các chuyên gia giỏi, kết hợp với các thầy cô giáo có kinh nghiệm lâu năm để biên soạn ngay một chương trình mới. Bộ chỉ cần xin các Sứ quán bạn các chương trình Sinh học phổ thông, hay lấy được từ trên Internet để tham khảo kinh nghiệm của một số nước đáng học hỏi. Tổ chức các cuộc Hội thảo sâu sắc về nên phân ban sâu hay không phân ban. Bỏ hẳn kiểu phân ban chênh nhau quá ít thời gian như hiện nay. Chương trình sau khi biên soạn xong cần đưa ra trưng cầu ý kiến rộng rãi trước khi thông qua một Hội đồng Quốc gia đầy đủ tín nhiệm. Sau đó để cho các nhà xuất bản và các nhóm tác giả cạnh tranh qua chất lượng các bộ sách giáo khoa khác nhau (nhà nước không cần tốn kinh phí gì về chuyện này). Bộ sách nào hay sẽ được tái bản nhiều lần (và ngược lại). (Sách giáo khoa) Tôi mong có thể làm ngay mà không cần đợi đến tận năm 2015.


Về các chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển Giáo dục 2010-2020 đã được Thủ tướng phê duyệt vào tháng 6 vừa qua, tôi cho rằng không có cơ sở để tin rằng có thể thực hiện được nếu không có những giải pháp hết sức mạnh dạn và với sự đầu tư đáng kể về tài chính của Nhà nước.

Xin hãy xem đó là những chỉ tiêu gì?

Theo Chiến lược này thì đến năm 2020. nghĩa là còn chưa đến 8 năm nữa sẽ phải đạt được các mục tiêu sau đây: Mục tiêu cụ thể được đặt ra là hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015.Đối với giáo dục phổ thông, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở tiểu học là 99%, trung học cơ sở là 95% và 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; có 70% trẻ em khuyết tật được đi học. Đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, sẽ điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, phấn đấu đến 2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp và đại học đạt khoảng 70%; tỷ lệ sinh viên tất cả các hệ đào tạo trên một vạn dân vào khoảng 350 - 400. Giáo dục thường xuyên cũng được phát triển tạo cơ hội cho mọi người có thể học tập suốt đời, bước đầu hình thành xã hội học tập. 


Để đạt được các mục tiêu chiến lược cần thực hiện tốt 8 giải pháp, trong đó các giải pháp đổi mới quản lý giáo dục là giải pháp đột phá và giải pháp phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là giải pháp then chốt. 


Một trong các nội dung đổi mới quản lý giáo dục là bảo đảm dân chủ hóa trong giáo dục. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá người dạy, giáo viên và giảng viên tham gia đánh giá cán bộ quản lý... 


Bên cạnh đó, phân loại chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học theo các tiêu chuẩn chất lượng giáo dục quốc gia, các cơ sở giáo dục chưa đạt chuẩn phải có lộ trình để tiến tới đạt chuẩn. Đồng thời, chú trọng xây dựng các cơ sở giáo dục tiên tiến, trọng điểm, chất lượng cao để đào tạo bồi dưỡng các tài năng, nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế - xã hội.

Tập trung vào quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục; xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục, thực hiện kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục của các cấp học, trình độ đào tạo và kiểm định các chương trình giáo dục nghề nghiệp, đại học. 


Chiến lược nêu rõ, chuẩn hóa trong đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và đánh giá nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, chú trọng nâng cao đạo đức nghề nghiệp, tác phong và tư cách của đội ngũ nhà giáo để làm gương cho học sinh, sinh viên. Tiếp tục đào tạo, đào tạo lại đội ngũ nhà giáo để đến năm 2020, 100% giáo viên mầm non và phổ thông đạt chuẩn trình độ đào tạo, trong đó 60% giáo viên mầm non, 10% giáo viên tiểu học, 88% giáo viên trung học cơ sở và 16,6% giáo viên trung học phổ thông đạt trình độ đào tạo trên chuẩn; 38,5% giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 60% giảng viên cao đẳng và 100% giảng viên đại học đạt trình độ thạc sỹ trở lên; 100% giảng viên đại học và cao đẳng sử dụng thành thạo một ngoại ngữ.Thực hiện đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sỹ cho các trường đại học, cao đẳng với phương án kết hợp đào tạo trong và ngoài nước để đến năm 2020 có 25% giảng viên đại học và 8% giảng viên cao đẳng là tiến sỹ. 


Trên cơ sở đánh giá chương trình giáo dục phổ thông hiện hành và tham khảo chương trình tiên tiến của các nước, thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi địa phương. 


Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, pháp luật, thể chất, quốc phòng - an ninh và các giá trị văn hóa truyền thống; giáo dục kỹ năng sống, giáo dục lao động và hướng nghiệp học sinh phổ thông. 


Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học. Đến năm 2020, 90% trường tiểu học và 50% trường trung học cơ sở tổ chức dạy học 2 buổi/ngày. 


Đổi mới kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng đảm bảo thiết thực, hiệu quả, khách quan và công bằng; kết hợp kết quả kiểm tra đánh giá trong quá trình giáo dục với kết quả thi.Thực hiện định kỳ đánh giá về chất lượng học tập của học sinh phổ thông nhằm xác định mặt bằng chất lượng và làm căn cứ đề xuát chính sách nâng cao chất lượng giáo dục của các địa phương

Nguồn: GS.TS. Nguyễn Lân Dũng



Trở về trang chính
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
(Hoàng Kim để tôi đọc lại)
DẠY VÀ HỌC
(trang tình yêu, văn hóa giáo dục,
khoa học cây trồng và du lịch Việt)

HỌC MỖI NGÀY 

(Những bài tuyển chọn về văn hóa giáo dục
lịch sử, thơ văn)
DẠY VÀ HỌC Ở ĐHNL HCM

Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

Nguyễn Vạn An

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. Nguyễn Vạn An là một họa sĩ tài hoa Việt kiều tại Pháp. Anh viết thơ văn hay, giỏi chơi đàn và có khiếu thưởng thức nghệ thuật tinh tế.  Xem tranh anh vẽ,  hình điêu khắc anh chế tác và đọc "Hồn của tượng" , "Viết thư pháp bằng nước lã" trên trang Nguyễn Vạn An  cho thấy  sự tài hoa đích thực của một họa sĩ, nhà thơ và nhà thiền học. Thơ văn anh giản dị, giàu tính nhân văn, sau trang viết thấp thoáng hình bóng một người tử tế, hiền lành, có chút hài hước kín đáo. Bài  "Nhớ Mẹ", "Lời Mẹ dạy" tôi thường đọc lại. Anh Nguyễn Vạn An có ở http://ngvanan.blogtiengviet.net .

HỒN CỦA TƯỢNG

Nguyễn Vạn An


Mới gặp Anh đêm nay,

Xin Anh chỉ phác em vài nét,

Hướng môt dáng ngồi, níu hai cánh tay,

Nắn một áng lưng, gọt một bờ vai.

Em e thẹn quay đi,

biết Anh đang nhìn em tha thiết,

Xin Anh nhè nhẹ thôi !

Anh muốn tìm hiểu em,

hiểu từng chi tiết,

Em chẳng có gì giấu Anh hết,

Vì em biết,

Anh sẽ tìm những cái gì cao quý nhất,

Trong thân em,

Mà trân trọng dãi bầy!

Đêm nay, rồi ngày mai, rồi ngày mốt,

Trong không gian linh thiêng của mỹ thuật,

Thất bại hay thành công,

đời đôi ta đã dính chặt.

Tất cả cuộc đời em,

em đã đặt,

Trong đôi bàn tay Anh,

Ngay từ giây phút này,…..



Lời bình của JULIETTE :

Anh An.
Bài thơ của anh.
Bức tượng của anh.
Hòa quyện vào nhau
trong lời thì thầm của người thiếu nữ.
Lúc nửa đêm.
Cổ đã mỏi.
Chân đã tê.
Nhưng nàng vẫn ngồi im.
Ngồi im thật kiên nhẫn.
Ngồi im thật dịu dàng.
Để mặc cho người nghệ sĩ:
“Hướng môt dáng ngồi, níu hai cánh tay,
Nắn một áng lưng, gọt một bờ vai”.
Nét mặt nàng e thẹn quay đi,
trái tim nàng thì thùng đập mạnh.
Nhưng nàng vẫn ngồi im.
Với một lòng tin.
Tuyệt đối.
“Tất cả cuộc đời em, em đã đặt
Trong đôi bàn tay Anh,
Ngay từ giây phút này…”

Anh An.
Đọc bài thơ của anh,
Juliette cũng ngồi im.
Xúc động.
Xao xuyến.
Người nghệ sĩ ơi,
Juliette xin được chia sẻ
giây phút giao hòa này với anh…


PHÚT BÊN EM

Hoàng Kim


  (Bức tượng nổi tiếng của Antonio Canova)
                                                               
Kanchina! Kanchina!
Anh gọi tên em Kanchina
của Antonio Canova
trong bảo tàng nghệ thuật.
Anh bồi hồi cầm tay em
đến bên tượng Gớt
phút giây này
tình yêu này
em là suối nhạc
để Bethoven dâng đời
kiệt tác “Ánh trăng”.

Kanchina! Kanchina!
Em là tượng thần Tình yêu
rung động hoá thân
dưới bàn tay vàng
của Antonio Canova.
Em là mơ hay là thật?
Anh muốn ôm em vào lòng
hôn lên đôi môi ngọt ngào
và áp đầu lên ngực
để những phút giây thần tiên
được sống bên em
say đắm đến vô cùng!

VIẾT THƯ PHÁP BẰNG NƯỚC LÃ

Nguyễn Vạn An
Tôi đã được đi thăm thú khá nhiều nơi bên Trung Quốc, chụp rất nhiều hình. Vậy mà các bức hình tôi thích nhất lại là vài bức rất bình thường, chup không đẹp. Đó là các hình chụp các nhà thư pháp viết chữ ngoài đường bằng nước lã !


Hôm đó trời không tốt lắm. Vừa xuống xe, đã thấy nhiều nhóm người ngưng lại tại nhiều nơi trên phố : đó là các du khách xem các nhà thư pháp Trung Hoa viết chữ. Đây là những ông già đã về hưu, còn khoẻ mạnh, minh mẫn. Họ ăn mặc đủ ấm, giản dị, gọn gàng, sạch sẽ. Mỗi sáng họ ra một khu phố có nhiều sân trống, để viết thư pháp. Viết trên sân, dùng nước lã thay vì mực tầu !

Mỗi cái bút to như một cái chổi, đầu nhọn, cán dài. Họ cầm bút rất xa ngọn, nên phải kẹp cái cây sát vào người cho vững chắc. Bên hông mỗi người đeo một bình nước. Lâu lâu lại nhúng chổi vào lấy nước rồi viết. Mỗi người dành một khoảng đất, chăm chú viết, không hề để ý tới các du khách đang yên lặng đứng chung quanh chiêm ngưỡng. Không hiểu sao cầm cán xa ngọn bút như thế mà viết được.

Mỗi người viết có một phong cách riêng. Nhưng tôi thấy ai viết cũng đẹp. Nét bút nào cũng vừa cứng cát vừa uyển chuyển, trong sáng, tao nhã, không kém gì các thư pháp tôi đã được xem trong tư gia của các nhà quyền quí đời xưa (nay mở cho du khách tới thăm), hay trong các viện bảo tàng, nhất là viện bảo tàng Mỹ thuật ở Thượng Hải.
Tại sao cách viết thư pháp như thế lại làm tôi cảm động, đứng lại coi mê man như vậy ? Bởi vì chỉ trong khoảng mười lăm phút, nửa giờ sau, các chữ đó sẽ khô đi, và biến mất ! Các nhà thư pháp biết như vậy, mà vẫn chăm chú, say mê, viết làm sao cho thật đẹp. Họ chăm chỉ viết, và tỏ ra hài lòng thanh thản nhìn chữ biến đi ! Cái tuyệt vời là ở chỗ đó !
Tôi tự nghĩ không biết mình có khi nào làm một cái gì, vẫn cố gắng cho tuyệt hảo, mà biết rằng công trình của mình chỉ một lát sau sẽ biến đi, vĩnh viễn không còn nữa.  Nghĩ cho cùng thì cuộc đời mỗi chúng ta có là bao nhiêu, công trình của mỗi người, to lớn đến đâu, cũng chỉ là một điểm nhỏ trong vĩnh hằng của thời gian! Tất cả chỉ là vô thường. Nhưng các vị này nhìn nhận được cái vô thường thể hiện trong khoảng thời gian ngắn ngủi của mười lăm phút nửa giờ mà họ vẫn học tập một cách rất hết sức nghiêm chỉnh. Và họ nhìn công trình của mình tan biến đi một cách thảnh thơi ! 

Quả là một bài học cao quý cho mình !
Email
t


NHỚ MẸ 


Nguyễn Vạn An


Tối nay ngồi vẽ mẹ. Một người mẹ của đồng quê đất Việt. Da mặt mẹ đã xạm đen vì giãi dầu. Đôi mắt mẹ đã chĩu xuống vì suy nghĩ, vì chịu đựng, vì lo lắng cho các con. Đôi môi mẹ đã khô khan nứt nẻ, vì tranh thủ, vì buôn bán, vì cãi cọ, vì van xin, vì cầu nguyện. Cứ mỗi nỗi nhớ là vẽ một nét nhăn trên mặt mẹ. Vẽ một lúc thì mặt mẹ đầy nét nhăn nheo. Vậy mà nỗi nhớ vẫn chưa nguôi. Làm sao con có thể vẽ được hết nỗi nhớ mẹ !

Từ lúc sanh đứa con đầu, mẹ chỉ sống về chúng con. Bây giờ chúng con đã khôn lớn, đã nên người. Mẹ muốn gì chúng con cũng có thể đem về cho mẹ được. Nhưng mà mẹ đã đi rồi !

LỜI MẸ DẠY
Nguyễn Vạn An

Nhân ngày lễ VU LAN, xin kể cho các bạn một mẩu chuyện nhỏ.



Hôm đó chúng tôi hẹn nhau ở một bến taxi để cùng đi một dạ hội lớn ở nhà hát nhạc kịch Bastille tại Ba Lê. Đây là một buổi trình diễn của nhóm bà Pina Bausch, rất nổi tiếng. Người nào cũng áo quần bảnh bao. Các ông thì côm pờ lê đen, cở ra vát, có người còn đeo nơ. Các bà các cô thì áo dài lộng lẫy, trang sức sang trọng, nước hoa thơm lừng. Chúng tôi ha hả cười nói ồn ào, vì lâu rồi mới có dịp gặp nhau đông như vậy.


Đang vui bỗng nhiên tôi im bặt, vì cảm thấy có cái gì khác lạ. Nhìn quanh mới thấy có hai ông bà cụ già người nghèo, áo quần lếch thếch, mặt mũi dơ bẩn, đang nhìn bọn chúng tôi. Các bạn tôi cũng ngừng nói chuyện.

Cặp vợ chồng, nhất là người đàn bà, nhìn chúng tôi hằm hằm. Bà vợ nhìn vòng vòng, rồi bất chợt trừng mắt về phía tôi. Bà khệnh khạng đến gần, cố ý đánh rơi một đồng tiền xuống đất, nhìn tôi rồi quát lên : « Nhặt đồng xu cho tao ! ».

Các bạn tôi đùng đùng nổi giận. Có người nói : « Thôi tụi mình đi đi, trễ giờ rồi ! ».

Tôi thấy lòng dâng lên đầy thông cảm, cúi xuống tìm đồng xu, rồi móc túi lấy một đồng khác, trịnh trọng, lễ phép, đưa hai đồng tiền cho bà ta. Các bạn tôi im lặng nhìn theo, không ai nói gì. Chúng tôi ùn ùn kéo nhau đi.

Dù bà lên tiếng hằn học, tôi không giận, vì đã thấy sự cách biệt lố bịch giữa chúng tôi và vợ chồng hai người kia. Nhưng tôi hiểu tại sao tôi tự động có cử chỉ lễ phép như vậy. Đó là vì tôi nhớ những kỷ niệm hồi còn nhỏ ! Hồi đó, mẹ tôi luôn luôn cất sẵn mấy đồng tiền trong một cái hộp, để cho người nghèo. Nhiều người ăn mày đói rách hay đi qua trước cửa. Họ rên la, chúng tôi sợ lắm. Mỗi lần nghe họ, mẹ tôi lại lấy một chút tiền rồi gọi một đứa đem ra cho.

Mẹ nói «
Con phải cầm hai tay, rồi cúi chào và lễ phép đưa cho người ta !» Khi đến lượt, tôi cầm tiền chạy ù ra, làm như mẹ nói, rồi chạy ù vào ôm chân mẹ… Không biết bao nhiêu năm đã lưu lạc xứ người, mà trong tiềm thức, tôi vẫn còn nhớ lời mẹ dặn.

 ĐỢI ANH
Hoàng Kim

Anh như cơn mưa ngọt đầu mùa
Mang đến niềm vui của ngày gieo hạt
Mai Việt nở bừng khoe sắc
Đằm thắm”Lời thì thầm của dòng sông”

Anh và em như bức tranh tĩnh vật treo tường
Một đôi bình gốm qúy
Cặp bình giản dị
Sang trọng,
khiêm nhường
tỏa sáng cho nhau

Anh mang đến cho em giấc ngủ nhiệm màu
Xoá đi ưu tư phiền muộn
Anh vỗ về em
bằng lời ru ngọt ngào cảm động
Tìm những nét cao quý nhất trong em
mà trân trọng giãi bày

Anh thân yêu
Nay anh đã xa rồi
Em vẫn ước mong anh
Đợi anh ngày trở lại


BÀI THƠ CỦA SỰ KHÁT KHAO CHỜ ĐỢI

Hoàng Kim

Anh Vạn An là chủ bút của blog THƠ VÀ VẼ. Anh là người trãi nghiệm, giản dị và tinh tế. Anh đã thân ái chào cư dân blog để đi đâu không rõ. Việc anh vắng lâu đã làm nhiều người sững sờ, trong đó có Lâm Cúc, Huỳnh Mai, Bích Nga, Hoài Vân, Phương Phương SG, Juliete … và tôi là những người thường được anh dành ưu ái cảm nhận. Tội nghiệp cho Juliette, sau khi anh đi, cô cũng bặt tin luôn kể từ dạo đó. Thế mới thấy những người tri kỷ họ quý nhau đến dường nào!
 Bất cứ ai đã từng tiếp xúc với trang webblog của anh Vạn An đều nhìn nhận rằng đây là một nhà họa sỹ bậc thầy và là một nhà thơ tài hoa. Tôi đã viết bài thơ “Đợi Anh” cho anh, cho tôi, cho con tôi và cho những người yêu đang khao khát chờ đợi. Tôi cũng viết bài thơ này cho những người thân thương đang ngóng đợi người thân hoặc ngóng trông điều lành và niềm vui. Cái giá của sự chờ đợi thật lớn.

Hạnh Phúc thay cho ai biết mình đang được yêu thương và chờ đợi và thực sự hiểu hết cái giá của sự khắc khoải chờ đợi đó.

Trở về trang chính

TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
(Hoàng Kim để tôi đọc lại)
DẠY VÀ HỌC
(trang tình yêu, văn hóa giáo dục,
khoa học cây trồng và du lịch Việt)

Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2012

Phan Chí Thắng




DẠY VÀ HỌC. Nhân chuyện vui, một bạn hỏi tôi: “Văn hóa là gì?” Tôi trả lời : “Các cụ có định nghĩa rồi. Văn hóa là điều người ta còn nhớ khi người ta đã quên đi tất cả ” . Bạn tôi hỏi tiếp: ”Theo anh thì anh Thắng là người thế nào ? anh nhớ gì về anh Phan Chí Thắng?”. Tôi đáp không chút ngập ngừng: ”Theo mình, đó là một người rất hay, sâu sắc, tinh tế”  và xòe tay đếm  những bài viết ám ảnh gần đây của anh. (Đinh Đình Chiến, Phan Chí Thắng  và Nguyễn Lâm Cúc tại Đức Linh năm 2007, ảnh trong bài Lâm Cúc - nhà thơ nỗi đau  )


MỘT GIỜ DẠY HỌC CỦA KHỔNG TỬ

Phan Chí Thắng

Khổng tử thường đưa học trò đi các nơi du lịch sinh thái, vừa đi vừa dạy bằng cách trò chuyện với học trò. Các giáo án từ trên đưa xuống tỏ ra quá giáo điều và khô cứng nên ông không dùng. Mà ông cũng không bao giờ chuẩn bị giáo án. Ông phó mặc cho trí tuệ và cảm hứng dẫn dắt.
Vào một ngày đầu thu mát mẻ, ông đưa mấy người học trò ra vườn trúc. Những khóm trúc xanh nằm giữa bãi cỏ xanh. Xa xa có con suối róc rách, bên kia con suối là đồi chè rất xanh, vài ba thiếu nữ đang khom lưng hái chè.
Cầm chén rượu từ tay Tử Tư, người cháu duy nhất là môn đồ của ông, Khổng tử thư thái ngắm nhìn cảnh đẹp thiên nhiên đang bày ra trước mắt. Mấy người học trò cung kính chắp tay đứng sau lưng ông.
Bỗng Khổng tử cất tiếng:
- Hôm nay ta muốn các con trả lời câu hỏi: “Cái gì ở sau lưng người đàn bà?”
Sau vài phút suy nghĩ, Tử Tư bước lên:
- Thưa thầy, sau lưng người đàn bà là một giỏ đầy trách nhiệm. Mời thầy và các bạn nhìn lên đồi sẽ thấy những người phụ nữ đang còng lưng với cái giỏ chè.
Khổng tử chiêu một ngụm rượu, vuốt râu khen Tử Tư:
- Con là người có tấm lòng nhân ái và biết thông cảm với nhân quần. Ta cho con 7 điểm.
Đến lượt Mạnh tử:
- Thưa thầy, sau lưng người đàn bà là không có gì ạ. Bản thân người đàn bà đã quá đẹp, không còn cái gì xung quanh có thể so sánh nổi với người đàn bà nữa rồi. Ca dao có câu:
Trúc xinh trúc đứng đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh

Khổng tử lại chiêu thêm một ngụm rượu, cười hiền hậu:
- Con có khả năng tư duy logic và là người tin vào Chân Thiện Mỹ. Ta cho con 7 điểm.
Đến lượt Tuân Tử:
- Thưa thầy, sau lưng người đàn bà là nhiều người đàn ông ạ. Đó là những người si mê chạy theo nàng.
Khổng tử cười lớn:
- Con nói đúng. Con biết đề cao sự thực tế và những khía cạnh vật chất trong tư tưởng Khổng Tử. Ta cho con 7 điểm.
Tất cả các con đều nói đúng nhưng chỉ mới đưa ra được một câu trả lời chưa khái quát, lại quá phức tạp và có vẻ chữ nghĩa quá!
Đám học trò im lặng chờ thầy đưa ra đáp án. Khổng tử uống nốt chén rượu, chậm rãi nói:
- Rất đơn giản: Ở ngay sau lưng của người đàn bà là cái khoá áo ngực. Hầu hết thời gian trong ngày người đàn bà mặc áo ngực? Ta hiểu các con muốn nói là có những lúc người đàn bà không mặc áo ngực. Những lúc đó thì chúng ta chỉ quan tâm đến phía trước của người đàn bà thôi. Ha ha!
Các môn đồ cúi đầu suy nghĩ. Thầy của họ thật sâu sắc. Thầy dạy cho họ biết bao giờ người ta cũng nhận thức thế giới khách quan như nó vốn có nhưng lại theo quyền lợi của ta.


TỨ TUYỆT KHÔNG ĐỀ

Phan Chí Thắng

Không có rượu sao mà say đến thế
Giải Ngân Hà mờ tỏ  bóng thời gian
Ta đã được một lần say lặng lẽ
Giữa cuộc đời tỉnh táo đến khôn ngoan.


TA NỢ

Phan Chí Thắng

Ta nợ mặt trời chiếc bóng dưới chân
Ta nợ đêm thu tiếng sáo trong ngần
Ta nợ mẹ già tháng năm tần tảo
Ta nợ vợ hiền một thời thanh xuân

Ta nợ cuộc đời cúi đầu tạ lỗi
Ta nợ quê hương núi thẫm ráng chiều
Ta nợ lòng mình những lần thất hẹn
Ta nợ cuộc tình khoá lễ cầu siêu


CÂY LỘC VÙNG THAY LÁ TỰ LÀM  XUÂN
Phan Chí Thắng
 
Bão xa. Mưa dai. Bầu trời xa lạ

Hà nội mùa thu bỗng lạnh bất thần
Lá lộc vừng đua nhau rơi vàng úa
Anh cháy lòng ngơ ngác mất người thân


Trên những cành khô khan trần trụi
Những mầm non chợt hé mắt xanh ngần
Thêu lộc thắm giữa trời thu ám bụi
Cây lộc vừng thay lá tự làm xuân


Anh không thay được bàn tay đôi mắt
Nhưng hồng cầu anh thay mới từng giây
Lộc non xanh luôn chứa đầy lồng ngực
Cây tình mình mỗi lúc một xuân say


Ở ĐÂU?

Phan Chí Thắng

Ở đâu có một ngôi nhà bé
Cửa sổ đèn khuya bóng em ngồi
Giai điệu dân ca ngân nhè nhẹ
Tự tình dạ khúc gửi xa xôi


Ở đâu có một khuôn vườn lặng
Em nở dùm tôi những nụ hồng
Chim hót chào reo bình minh nắng
Sương mòn xao xuyến như mắt mong


Ở đâu có một trời thương nhớ
Em thấu dùm tôi nỗi cháy lòng

Ở đâu có một con thuyền nhỏ
Chở những vần thơ tôi sang sông


Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính 
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, DayvahocHọc mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Những bài thơ hay



TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. "Em về quê với anh không" là bài thơ hay của anh Nguyễn Khắc Hiền đã lên sóng Đài Phát thanh Truyền hình Hải Dương với lời bình mượt mà duyên dáng của cô phát thanh viên xinh đẹp và tài diễn ngâm ngọt ngào. Bạn cũng thưởng thức những bài thơ hay khác của hội Xóm Lá được tuyển chọn ghép nối liên hoàn với bài thơ trên trong một góc nhìn văn hoá Việt.

EM VỀ QUÊ VỚI ANH KHÔNG ?


Nguyễn Khắc Hiền

Em về quê với anh không
Phố phường nào có gió đồng mà chơi
Miền yêu ngược với nắng trời
Làn mây mỏng mảnh bão người sóng xô
Về đây sông nước vỗ bờ
Dáng chiều trẻ lại câu thơ đã chiều!
Dẫu rằng còn một nửa yêu
Cũng xin gom đủ mọi điều em mong
Em về quê với anh không
Bỏ đi thôi những đục trong hững hờ...

Chênh vênh một mối tình thơ
Gió đồng trải chiếu đang chờ đợi em !


RƯNG RƯNG HAI TÓC LỆCH MÀU

Nắng Hồn Nhiên

Nghe thơ mời gọi thiết tha
Ước sao em được tới nhà thăm anh
Lúa đồng đã chẳng còn xanh
Tình quê hương lúa mà thành gió xuân
Trăm năm gặp được tri âm
Hoa xoan rắc tím những vần thơ xưa
Nửa trời nửa nước bơ vơ
Nên bao con sóng vỗ bờ hư không
Dòng đời ôi những đục trong
Thời gian vênh để cõi lòng ta đau

Rưng rưng hai tóc lệch màu
Đành ôm mối hẹn kiếp sau với người...

NGƯỜI QUÊ YÊU CẢ NHỮNG LỜI VU VƠ

Nguyễn Khắc Hiền

Em về quê với anh thôi
Mỏng manh thân gái bão đời sóng xô
Về đây sông nước vỗ bờ
Trồng sen nuôi cá thả thơ tung diều
Hồn quê đầy ắp tình yêu
Người quê yêu cả những điều vu vơ...



GỌI MÙA

Quỳnh Trâm

Hàng cây đứng tuổi đợi chờ
Giật mình lá trút giấc mơ Thu vàng
Con đường phía trước mênh mang
Lặng im, nghe tiếng đời sang gọi mùa

CHIỀU THU

HaThanh

Heo may xào xạc ngoài hiên
Xôn xao lá đổ, gió mềm làn môi.
Dịu dàng em đến bên đời
Nụ hôn dịu ngọt xanh trời chiều thu.

THU SANG

Minh Hồng

Tắt đi chút nắng trên sông!
Sấu vàng nhường cúc, đò đông đôi bờ
Sương rơi cho mướt thuyền thơ!
Đêm qua ai gõ cửa chờ thu sang .


TÌNH THU

Lam Chiều

Giọt thu mơn trớn má hường
Phong Linh ru giấc mộng thường bình yên
Tay trần ve vuốt khuôn thiêng
Chia tay khúc hạ, tục huyền tình thu !

ĐÊM THU

Nguyễn Ngọc Đậu


Đêm Thu cơn gió thoảng lùa
Ánh trăng le lói rèm thưa ngó nhìn
Nhẹ nhàng hôn cặp môi xinh
Gió cùng Trăng gọi thuyền tình vào Thu

THUNG DUNG

Hoàng Kim

Cúc cu chim gáy gọi mùa
Tình thu lãng đãng, đêm thu mơ màng
...
Nước trong ngập ánh trăng vàng
Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
Lợi danh một thực mười hư
Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi

Thung dung thanh thản cuộc đời
Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm
Ta về hát khúc trăm năm
Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao
 


Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính
 
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam,
Hoàng Kim, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, DayvahocHọc mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con
 

Thứ Tư, 3 tháng 10, 2012

Trăng rằm




Hoàng Kim 

Trăng  sáng lung linh , trăng sáng quá
Đất trời lồng lộng một màu trăng
Dẫu đêm khuya vắng người quên ngắm
Trăng vẫn là trăng, trăng vẫn rằm.

                                                                                  

                                                                                *
Tôi sinh vào lúc nửa đêm trăng rằm Nguyên tiêu năm giáp ngọ. Anh Hai tôi mất nửa đêm trăng rằm Nguyên tiêu năm 1994. Đó là những thời khắc cuộc đời, tôi thương nhớ mãi. Mẹ tôi mất sớm. Cha cũng mất sớm quá. Sau này nhiều rằm xuân, tôi thường khắc khoải ngắm trăng khuya một mình và nhớ không nguôi bài thơ "Cuốc đất đêm" của anh: "Mười lăm trăng quả thật tròn. Anh hùng thời vận hãy còn gian nan. Đêm trăng nhát cuốc xới vàng. Trăng dòm ta hẹn trăng càng dòm thêm. Đất vàng, vàng ánh trăng đêm. Đêm khuya ta với nàng quên nhọc nhằn". Tôi đã viết bài thơ: "Trăng xưa cùng anh cuốc đất. Trăng nay mình em làm thơ. Không gian một vầng trăng tỏ. Trăng ơi rọi đến bao giờ?".

Đêm nay tôi lại nhớ về Hà Nội. Tôi nhớ Nghìn năm Thăng Long Đông Đô Hà Nội với chùm ảnh tuyệt đẹp của một góc nhìn. Tôi nhớ nhưng đêm trăng ở nhiều nơi trên khắp Tổ Quốc. Tôi bâng khuâng Nỗi nhớ mùa đông khúc hát trữ tình say đắm của Phú Quang, lắng những điều sâu thẳm Hà Nội trong mắt ai của đạo diễn Trần Văn Thúy. Tôi nhớ trăng Tây Hồ, nhớ bún ốc Hà Nội và tìm về Một người Hà Nội của Nguyễn Khải để đọc lại. 

Cái kết của tản văn thật hay và có hậu: "Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa nhìn sang đền Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây đè lên hậu cung, một phần bộ rễ bật gốc chỏng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Cô nói với tôi thế, đã biết nói thế đâu phải đã già. 

Mấy ngày sau, cô kể tiếp, thành phố cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần lên, mỗi ngày một tí. Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà lại sống. Cô nói thêm : "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được". 

Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết, nhưng phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.".

Bác Hồ có bài thơ Nguyên tiêu và tứ thơ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối. Đối diện mặt trời đỏ là vầng trăng hiền hòa soi sáng cây mai vàng, cây đào bên nước biếc. Đúng là vầng trăng Việt! Trăng rằm. 

Hoàng Kim
(tản văn ) 





Bây giờ mời bạn hãy đọc:

HÀ NỘI TRONG MẮT AI


NỖI NHỚ MÙA ĐÔNG


<iframe width="420" height="315" src="http://www.youtube.com/embed/6pNmC3S_KxA" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

Nhạc và lời: Phú Quang, Trình bày và video Tấn Minh


NGHÌN NĂM THĂNG LONG ĐÔNG ĐÔ HÀ NỘI


Nhớ Bắc

Huỳnh Văn Nghệ

Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long...


http://vanhoc.xitrum.net/thoca/hiendai/6448.html

Hướng về Nam

Thủ Đô giữa tháng năm này
Lọc muôn sắc đỏ cho ngày hội vui
Nhớ thương trong dạ bồi hồi
Trông cờ hoa nhớ đất trời phương Nam ...

Hoàng Kim



MỘT NGƯỜI HÀ NỘI

Nguyễn Khải


1.

Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Năm 1955, tôi từ kháng chiến trở về một Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước, còn họ hàng chỉ còn lại có dăm gia đình, vì chồng và con đều đi theo cách mạng. Cô Hiền cũng ở lại, dầu cô chú vẫn sống ở Hà Nội suốt chín năm đánh Pháp, các con lại còn nhỏ, chả có dính líu gì đến chính phủ "ngoài kia" cả. Họ ở lại chỉ vì không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác. Lại thêm, chú tôi làm nghề giáo học, một ông giáo dạy cấp tiểu học, là người cần thiết cho mọi chế độ, chế độ cộng sản cũng phải khuyến khích trẻ con đi học, học văn hóa và học làm người. Còn chính trị chính em là những lứa tuổi trên, học sinh tú tài và sinh viên đại học. Tính thế là đúng nhưng tôi vẫn lo, thật ra không có gì đáng để phải lo, nhưng tôi vẫn nghi ngại gia đình này rất khó gắn bó với chế độ mới và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ. Là vì họ ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn. Với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội, trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè. Cái mặc cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm. Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định. Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi súm sít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả hê, không cần phải theo bó một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi của... giai cấp tư sản. Tôi không dám thốt ra miệng nhưng vợ chồng vẫn bảo riêng nhau : "Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối".

2.

Đã là người gốc Hà Nội thì không thể không nghe nói tới sự giàu có lương thiện của cụ Tú Dâu Hàng Bạc, là nhà ở cuối Hàng Bạc đầu Hàng Mắm. Xưa kia đất ấy là bến sông, mành Nghệ An chở nước mắm ra đổ tại bến và bốc ngay lên nhà. Nước mắm đổ vào các kiệu chôn chìm trong đất, mỗi lần thay phải dùng khăn bông trắng lau chùi sạch. Một dãy nhà chôn kiệu nước mắm và một gian nhà để tiền, tiền kẽm, mang một quan tiền kẽm đã phải vác vai. Cụ Tú đậu tú tài khoa thi hương cuối cùng khi tuổi đã lớn, sau đó là bỏ hẳn bút lông để theo bút sắt. Cụ Tú ngâm thơ vịnh nguyệt, ăn ở giao tiếp theo kiểu cách nhà quan, dạy con cái cũng theo khuôn phép nhà quan là cái phần hào nhoáng của gia đình. Còn cái phần căn cốt, cái phần được người đời trọng thực nể thực, cái gian nhà tiền ấy đều do hai bàn tay đảm đang của vợ gây dựng nên. Bà chỉ buôn có nước mắm thôi. Thơ của cụ Tú được bạn bè khen nịnh chẳng qua là nhờ ở cái mùi nước mắm Nghệ, nhờ ở cái mùi tiền từ các kiệu nước mắm, con cháu sau này vẫn đùa vụng thế. Bà Tú Dâu là em ruột bà ngoại tôi và là chị ruột mẹ cô Hiền. Hình như cả ba chị em đều lớn lên ở Hà Nội cùng một thời, cái thời Pháp mới sang, phố phường còn là nhà lá, nhưng chỉ có bà Tú là tiếng tăm hơn cả. Nhìn những tấm ảnh các cụ chụp từ đầu thế kỷ mà cảm động. Các cụ đều không được đẹp, mặt vuông trán ngắn, mắt hẹp và dài, lại hơi xếch một chút, gò má thì cao. Cả ba cụ đều ăn mặc theo cái mốt của thời ấy : khăn vấn bỏ đuôi gà, áo tứ thân bằng hàng tơ dệt thưa gọi là xuyến, mặc quần lĩnh Bưởi và đi hài. Ba bà đặc nhà quê nhưng lại đẻ ra một loạt con gái rất tân thời. Khoảng cuối những năm ba mươi, mẹ già tôi vẫn để răng đen, nhưng đã vấn tóc trần, đeo kiềng cổ và vòng tay bằng vàng chạm vừa thô vừa nặng. Cô Hiền vào những năm ấy đã cạo răng trắng và uốn tóc, mặc quần áo đồng màu, hoặc đen hết, hoặc trắng hết. Còn nữ trang đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim và hạt xoàn. Cũng vào những năm ấy có một số gia đình công chức cao cấp và quan lại, có cả mấy nhà buôn bán tơ lụa, thuốc bắc, kim hoàn, cho con gái lớn mở phòng tiếp khách văn chương, gọi là salon littéraire để mời gọi mấy anh văn sĩ, thi sĩ mới nổi và các cậu sinh viên cao đẳng. Khách văn chương là cái khung phải có, còn đám công tử một mai sẽ thành quan đốc, quan trạng, quan huyện mới là những nhân vật chính của mọi mộng mơ theo kiểu Tự lực văn đoàn. Ngôi nhà của cô Hiền cũng là một salon nổi tiếng, không phải vì bố mẹ giàu hoặc sang mà vì có con gái lớn quá đẹp, vừa đẹp vừa thông minh, biết cách tự khoe bằng những mẩu chuyện rất duyên dáng của mình. Tôi sở dĩ biết vô ối chuyện vặt vãnh của mấy ông Lan Khai, Đái Đức Tuấn tức Tchya, Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, Hồ Dzếnh... là do cô tôi kể lại cả. Ông Trương còn nhờ cô đọc giùm bản thảo của nhiều cây bút chưa thành danh, một phần vì tin ở tài thẩm định văn chương của cô, phần nữa cũng vì ông bận quá : bận viết, bận hút và bận cách làm giàu. Tôi hỏi đùa : "Vậy cái ông Nam Cao là do cô tìm được ra phải không ?" Cô trả lời rất nghiêm trang : "Ông Lê Văn Trương tìm ra. Là do ông nằm hút thuốc phiện ở nhà Trác Vỹ, tiện tay với lấy một chồng bản thảo để kê đầu, rồi tiện tay lôi ra một tập để đọc, cái tập ấy có tên "Cái lò gạch" do một cây bút hoàn toàn vô danh viết ra".

3.

Được sống năm đầu ở Hà Nội vừa giải phóng với lứa tuổi chúng tôi ngày ấy mới hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh, là cực kỳ khoan khoái. Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm đều ở Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội. Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ ? Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Một lần tôi đến thăm cô chú, thằng em trai đã 14, 15 tuổi chạy ra mở cửa rồi kêu ầm lên : "Mẹ ơi ! Đồng chí Khải đến". Cô tôi cau mặt gắt : "Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa ?" Bất đồ chú tôi cũng bước tới, nắm tay tôi rồi hỏi hồn nhiên : "Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi". Cô tôi thở dài, quay người đi. Tôi nói : "Nước được độc lập vui quá cô nhỉ ?" Cô trả lời : "Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ?" Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở. Về sau tổ dân phố lại vận động nhau không nên nuôi người ở. Nhà này trước đây có hai người ở, một anh bếp và một chị vú. Chị vú là vợ anh bếp, đẻ được đứa con nào lại đưa về quê cho bà ngoại nuôi. Sau ngày giải phóng cô tôi cho anh bếp về quê làm ruộng, còn chị vú vẫn ở lại, vì chủ tớ còn cần dựa vào nhau. Mỗi ngày chị đi chợ, đều có cán bộ bám theo, dò hỏi : "Chị có bị nhà chủ hành hạ không ? Tiền công có đưa đều đặn không ? Thái độ chính trị của họ là như thế nào ?" Chị vú gắt ầm lên : "Nếu họ không tử tế tôi đã xéo đi từ lâu rồi không cần anh phải xui". Chị ta kể lại chuyện đó cho cả nhà nghe, bình luận : "Cách mạng gì toàn để ý đến những chuyện lặt vặt!". Bây giờ thì chị vú đã mất rồi, về quê được bốn năm thì mất. Chị trông con cho bà cô tôi từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi mới về quê, tình nghĩa như người trong họ. Anh chồng không lấy vợ khác vì các con đã trưởng thành, anh làm chủ nhiệm một cửa hàng mua bán của xã, ngày giỗ ông chú và ngày tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em.

4.

Trong lý lịch cán bộ tôi không ghi tên cô Hiền. Họ thì xa, bắn súng đại bác chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản, dính líu vào thêm phiền. Tôi vẫn đinh ninh cô phải thuộc giai cấp tư sản vì cô có gương mặt đặc biệt là tư sản, càng già lại càng rõ. Tôi hỏi cô :

- Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ?

Cô Hiền cười rất tươi :

- Tao chưa đủ tiêu chuẩn.

Tôi cũng cười :

- Lại còn chưa đủ.

Cô nói thản nhiên :

- Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.

Tôi nín lặng vì đó là sự thật. Cửa hàng của cô chỉ bán có một thứ : hoa giấy, các loại hoa giấy và các lẵng hoa đan bằng tre, thêm ít bưu ảnh và sổ tay kỷ niệm. Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt, nhưng chịu thuế rất nhẹ, chỉ có một mình cô làm, các con thì chạy mua vật liệu, hoặc làm giúp phần cuống lá vào dịp Tết ta và Tết tây. Nhiều bà bạn cũng tỏ ý ngờ vực : "Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?". Cô tôi trả lời thật nhẹ nhàng : "Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết". Tất nhiên là cô khôn hơn các bà bạn của cô và cũng thức thời hơn ông chồng. Sau ngày Hà Nội giải phóng cô vẫn có hai dinh cơ, một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Ông làm nghề dạy học, con đông, đủ ăn là may, có tiền dư để tậu nhà là do ông viết sách giáo khoa cấp tiểu học, được Nha Học chính công nhận và cho in bán. Năm 56, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng chiến về. Một năm sau có một cán bộ đến hỏi về nhà cửa và có nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún. Cô trả lời tỉnh khô : "Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại". Cũng trong năm 56, ông chú tôi muốn mua một cái máy in nhỏ để kinh doanh trong ngành in vì chế độ mới không cho phép ông mở trường tư thục. Bà vợ hỏi lại : "Ông có đứng máy được không ?" - Ông chồng trả lời : "Không" - "Ông có sắp chữ được không ?" - "Không"- "Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à ?" Ông chồng tính vốn nhát, rút lui ngay. Cô kết luận với tôi : "Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao chỉ cần đủ ăn". Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại không phải lo sợ gì. Tôi hỏi lại : "Còn chú, còn các em ?" - "Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ tài để không phải sống bám".

5.

Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội là những người đàn bà có đầu óc rất thực tế. Mọi sự mọi việc đều được các bà tính toán trước cả. Và luôn luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô tuyên bố thẳng thừng với tôi : "Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ". Gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng, không lấy một ông quan nào hết, cũng chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân, đùa vui một thời còn son trẻ thế là đủ, bây giờ phải làm vợ làm mẹ, cô chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. Có gì mà kinh ngạc, cô đã tính trước cả. Sau khi sinh đứa con gái út, người con thứ năm, cô nói với chồng : "Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự lập, khỏi sống bám vào các anh chị". Là thôi hẳn. Cô bảo tôi : "Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao". Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô vẫn răn lũ con tôi : "… là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng". Có lần tôi cãi : "Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại bắt dạy con cái theo thời bình là khó lắm". Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi bảo : "Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này muốn sống ra sao là tùy".

Đầu năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, là đợt đầu tiên nên tuyển chọn rất kỹ càng, lứa tuổi từ 18 đến 25, diễn viên cải lương và kịch nói có, nhạc sĩ có, họa sĩ có, giáo viên trung học rất đông, là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Nghe nói khoảng 660 người. Người con trai đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện đăng ký xin đi đánh Mỹ. Tháng 4 năm 1965, lên Thái Nguyên huấn luyện. Tháng 7 rời Thái Nguyên vào Nam. Họ dừng lại ở Hà Nội vài giờ vào lúc tối, nhưng không một ai biết. Tôi hỏi cô : "Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ ?" Cô trả lời : "Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng". Ba năm cô không nhận được tin tức gì về đứa con đã ra đi, lại đến thằng con kế làm đơn xin tòng quân, cũng đòi vào chiến trường phía trong để gặp anh, nếu anh đã hy sinh thì nối tiếp chí hướng của anh. Tôi hỏi lại cô: "Cô cũng đồng ý cho nó đi à ?" Cô trả lời buồn bã: "Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó". Rồi cô chép miệng: "Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì". Cũng may chú em tôi học rất giỏi, thi vào đại học với số điểm cao, nên nhà trường giữ lại. Tôi đến chúc mừng cô và em, cô nói: "Hiện tại thì nó may hơn anh nó, nhưng nếu anh nó còn sống thì cũng chưa biết đứa nào may hơn đứa nào". Cô tôi tính toán việc nhà việc nước đại khái là như thế.

6.

Tháng 12 năm 1975, cô Hiền cho con gái xuống nhà gọi vợ chồng tôi tới ăn liên hoan mừng em Dũng đã về. Cô nói: "Nó đeo ba lô bước vào đến giữa nhà tao còn hỏi, anh muốn mua gì ?" Tôi cũng không thể nhận ra nếu được gặp đồng chí thượng úy này ở đâu đó. Gầy ốm quá, da đen quá, râu ria cũng nhiều quá, chẳng còn tí dấu vết gì là một chàng trai của Hà Nội. Trong mấy chục năm sống dưới chế độ ta, mỗi tháng cô đều tổ chức một bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kỳ. Khoảng mươi, mười lăm người gì đó. Cửa hàng đóng từ chiều, các bà lần lượt đến trước, xông ngay vào bếp cùng làm cơm, các ông đến sau, mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, bỏ áo khoác ngoài bên trong còn mặc đồ bộ, thắt cà-vạt, nhưng đã sờn bạc cũ kỹ. Tiệc đã bày xong, vẫn chỉ có mấy ông ngồi tán suông chứ chưa thấy các bà. Rồi cửa trong mở, bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Ngày thường các bà mặc áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, là các cô Lọ Lem của mỗi ngày, có phải nói chuyện mình cũng dễ ăn nói buông tuồng, thiếu ý tứ. Tất cả là bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục. Còn lúc này, toàn là những người quí phái mình phải xử sự ra sao nhỉ? Cô hỏi tôi : "Xã hội nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã hội ta thì là tầng lớp nào ?". Tôi cười phá lên : "Thưa cô, là bọn lính chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi, chứ còn ai nữa". Cho nên cái mùi lính tráng thâm nhiễm vào mọi nơi mọi chỗ, quan hệ kiểu lính, vui chơi kiểu lính, ăn nói kiểu lính, văn chương cũng là một mùi lính. Là người lính vừa chiến thắng, người lính đang được cả xã hội trọng vọng. Còn bây giờ, sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm, tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn của mình rồi. Bây giờ là thời của các giám đốc công ty, các tổng giám đốc công ty, các cố vấn, chuyên viên kinh tế thật giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả xã hội. Tôi xin trở lại cái bữa tiệc của buổi tối hôm ấy, bữa tiệc của mấy người thượng lưu của Hà Nội đã mất ngôi tiếp đãi, chiều nịnh hai anh bộ đội từ một thành phố lớn nhất nước trở về. Nói cho thật, Dũng là nhân vật chính, còn tôi chỉ là một loại nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái vinh quang chung mà thôi. Trong bữa tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành phố Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều nín lặng, không một ai hỏi lại, không một ai bình phẩm gì thêm. Tôi đã nói điều gì thất thố ? Một ông già hướng mặt về phía Dũng bảo: "Đồng chí bộ đội có chuyện gì vui kể nghe nào?" Dũng nói : "Thưa các bác, chỉ có những chuyện không được vui lắm". Một bà nói : "Cứ nói, người ở xa về có quyền muốn nói gì thì nói" Dũng nói rằng trong nửa năm nay anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người, bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục. Anh kể về một người bạn cùng trung đoàn, cùng một cấp thượng úy, tên là Tuất. Khi chuyến tàu từ Thái Nguyên tiến vào ga Hà Nội đã gần nửa đêm. Vừa mưa to xong, ánh điện lòe nhòe trên lá cây, trên những mặt đường vắng hun hút, trên sân ga Hà Nội. Tàu vừa dừng lại thì từ đâu đó bật lên tiếng loa rất sâu, rất vang : "Quí khách chú ý ! Quí khách chú ý ! Chuyến tàu từ Thái Nguyên...". Tuất ngồi cạnh Dũng chợt nhoài người qua mặt bạn, gần như đưa cả nửa thân người qua khuôn cửa sổ, hất mặt lên phía có tiếng loa kêu nho nhỏ: "Dũng ơi, Dũng, tiếng của mẹ mình đấy ! Tiếng của mẹ mình đấy !...". Không một ai được phép rời khỏi toa tầu, không một người thân nào được biết trước để chờ sẵn ở sân ga, để được nhìn nhau lần cuối, nói với nhau một lời cuối. Tất cả đều phải bí mật. Dũng kể tiếp:

- Thằng Tuất hy sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Cháu về Hà Nội là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau trong suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay. Bà bước ra giữa một đám đông nhưng cháu vẫn nhận ngay được là mẹ của Tuất. Tuất vẫn nói là hắn giống mẹ hơn giống cha. Cháu chỉ vừa kịp nói : Thưa cô, cháu là Dũng... nước mắt đã đầm đìa, rồi cháu òa khóc y hệt một đứa trẻ. Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu nhưng không khóc. Và bà nói run rẩy : "Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi".

7.

Nhiều năm đã trôi qua. Tôi sống ở thành phố Hồ Chí Minh thỉnh thoảng có việc phải ra Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Chú tôi đã mất rồi. Các em đã có gia đình riêng. Chúng nó cũng đã bắt đầu già. Lớp các cụ trong họ chỉ còn vài người, cô Hiền là một. Cô đã yếu nhiều, đã già hẳn, ngoài bẩy mươi rồi còn gì, nhưng cô vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Nơi tiếp khách của cô sau tấm bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm suốt mấy chục năm không hề thay đổi. Một bộ sa lông gụ "cái khánh", cái sập gụ chân quì chạm rất đẹp nhưng không khảm, cái tủ chùa một cánh bên trong bày một cái lọ men Thúy Hồng, một cái lư đời Hán, một cái liễn hấp sâm Giang Tây, và mấy thứ bình lọ màu men thì thường nhưng có dáng lạ, chả rõ từ đời nào. Cô đang lau đánh một cái bát thủy tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nổi bằng đồng, miệng chân cũng đều bịt đồng, thật đẹp. Bên ngoài trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt, lại nhìn một bà lão (nếu là một thiếu nữ thì phải hơn) lau đánh cái bát bày thủy tiên thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn một cái tết Hà Nội. Năm nay chắc chưa thể có thủy tiên. Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thủy tiên nhỉ ? Ví thử có thủy tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thủy tiên? Lại thêm cái cách sống, cái tâm lý sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái chết cái khổ đã dễ gì có được sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một rò hoa thủy tiên. Cô Hiền hỏi :

- Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào ?

Tôi vừa cười vừa nói :

- Chưa bao giờ Hà Nội vui như bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui.

- Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại.

Tôi nói :

- Có đúng một phần, phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn nghe những người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ rõ.

Nói thế cũng hơi nghiệt. Vì có mấy việc vừa xảy ra làm tôi tức, tức và đau. Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, tôi đạp chậm, vừa đạp vừa nghĩ ngợi. Một ông bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào xe tôi, may mà gượng kịp. Tôi quay lại nói cũng nhẹ nhàng : "Cậu đi đâu mà vội thế ?". Hắn không trả lời, đạp vượt qua xe tôi, rồi quay mặt lại chửi một câu đến sững sờ: "Tiên sư cái anh già !". Lại một buổi sáng tôi đến thăm một người bạn ở quận Đống Đa, đã lâu không đến nên quên đường, lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ. Tôi có than phiền với vợ chồng bạn về sự thiếu lễ độ của người Hà Nội, cô con gái đang cho con bú góp lời liền : "Ông ăn mặc tẩm như thế lại đi xe đạp họ khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cưỡi con cúp xem, thưa gửi tử tế ngay". Tôi cười nhăn nhó: "Lại ra thế !". Cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét không mấy vui vẻ của tôi về Hà Nội. Cô than thở với tôi rằng dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt một bà già nhà quê. Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa nhìn sang đền Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây đè lên hậu cung, một phần bộ rễ bật gốc chỏng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Cô nói với tôi thế, đã biết nói thế đâu phải đã già. Mấy ngày sau, cô kể tiếp, thành phố cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần lên, mỗi ngày một tí. Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà lại sống. Cô nói thêm : "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được". Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết, nhưng phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.




BÚN ỐC HÀ NỘI

Nguyễn Thị Tuyết Hạnh
Cuối tuần xin mời các bạn  thưởng thức món bún ốc Hà nội


Cứ mỗi khi thu về se se lạnh là lại thấy thèm bún ốc.Mà cũng chẳng hiểu sao  con ốc nhồi lại béo và ngon khi mùa thu về. Ngày nhỏ cứ mỗi dịp trung thu, mẹ mình lại mua ốc mít về luộc hoặc nấu một nồi bún ốc gọi là ''ăn ốc trông trăng''.


Lòng hoài niệm nhớ về tuổi thơ khi mỗi buổi sáng lại ra vỉa hè hiệu kem Phi điệp ăn 1 hào bún ốc nguội. Bún ốc nguội là bún ốc mà nước dùng để trong hũ sành. Khi có người ăn bà bán bún nhể vào chiếc bát con chừng 4,5 con ốc bằng đầu ngón tay cái , béo mẫm , sau đó dùng chiếc muôi tiện bằng  một gióng của cây trúc mầu vàng ươm múc ra chừng 2 muôi chan vào . Khi ăn, mọi người sêu một chút ớt bột chưng thả vào bát ốc. Từng váng ớt nhỏ quay vòng cùng những sợi lá tía tô nâu nâu thái mỏng tỏa mùi thơm  thật hấp dẫn. Gắp từng vắt bún nhỏ trắng tinh ,   xoe tròn mỏng mảnh thả nhẹ vào bát nước rồi đưa lên miệng. Chao ôi, ngon! Từng sợi bún mềm trơn trong miêng quyện với nước ốc ngọt lừ, chua dịu của dấm bỗng thật hấp dẫn. Bao giờ mình cũng dành những con ốc để ăn cuối cùng. Chà chà, con ốc giòn mềm sần sật quyện với tương ớt chưng thơm thơm, cay cay vừa ăn vừa sụt sịt sao mà sướng thế. Bây giờ ở Hà nội ít người bán bún ốc nguội. Hình như chỉ còn một hàng ngồi ở viả hè phố Ô quan chưởng. Hàng bún ốc này ngon. Đó là nơi hẹn nhau đến thưởng thức bún ốc của trai thanh gái lịch , những người Hà nội sành ăn và cả những người Hà nội xa quê về thăm tổ quốc. Đa số người Hà nội bây giờ ăn bún ốc nóng.


Hôm nay ra chợ mua 2 kg ốc. Con bé bán ốc quả quyết là ốc đồng, không phải ốc nuôi. Kinh nghiệm bao nhiêu năm làm nội trợ của mình cũng biết đấy là ốc đồng thật vì con ốc mỏng vỏ , vàng mỡ màng. Con ốc nuôi thì vỏ dầy và đen, nhìn thô kệch lắm.


Muốn có một bát bún ốc ngon thì con ốc phải béo và sạch. Muốn ốc béo và sạch thì khi mua phải chọn con ốc nhồi đầy miệng, vỏ mỏng vàng ươm. Các cụ ngày xưa gọi là sáng mầu. Mang ốc về ngâm khoảng 3 tiếng trong một cái chậu hay cái nồi nhôm vì ốc kị đồ bằng kim loại, se nhả nhanh chất bẩn , nhớt và ra hết mùi tanh. Rửa sạch ốc cho vào ngâm lại với nước lã trong đó có đập một quả trứng gà trên 1 kg ốc, hoặc nếu không có trứng gà thì thả vào một dúm bột mỳ cũng được, ngâm thêm dăm tiếng nữa. Lúc này con ốc đã sạch bụng, sạch nhớt sẽ hút chất bổ trong trứng. Khi ăn con ốc giòn , không dai, không tanh và ngọt. Lúc nhể ra con ốc béo trắng nằm tròn thu lu như chiếc chén hạt mít uống rượu của các cụ.


Luộc ốc cũng phải canh cho nồi ốc sôi bùng lên rồi nhắc xuống ngay vì đun lâu quá ốc sẽ dai. Sau đó đặt nồi lên bếp cho vào một chút mỡ, phi phần trắng của củ hành tươi thơm lên, cà chua thái hình miếng cau cho vào xào xơ với bột canh rồi đổ nước luộc ốc vào. Khi canh sôi cho tiếp chút dấm bỗng vào. Nếm thấy ngọt, chua dịu thơm mùi bỗng là được.


Bún ốc ngon mà thiếu ớt bột chưng là vứt. Chưng ớt cũng phải có kinh nghiệm không có ớt cháy đen, nhìn xấu và đắng. Cho một ít mỡ và chảo phi mấy cọng củ hành tươi thơm lên. Khi mỡ sôi đổ vào ớt bột đã để sẵn trong bát sứ, ớt sẽ gần như giữ nguyên mầu đỏ hấp dẫn.


Ăn bún ốc nóng phải ăn với bún sợi to mới ngon. Rau sống thì phải có xà lách, rau thơm, rau mùi, tía tô và không thể thiếu những khoanh cây chuối non thái mỏng tang. Nhìn đĩa rau sống xanh như ngọc thấp thoáng những khoanh cây chuối non ấy ta thấy giống như những vầng trăng khuyết đang lơ lửng trên bầu trời.


Gắp bún vào tô, nhể vào đấy khoảng 4, 5 con ốc ,rắc ít tía tô thái mỏng chan nước ốc với vài miếng cà chua đỏ au. Thế là ta đã có được một bát bún ốc mang hương vị mùa thu, hương vị Hà nội rồi đấy. Nào xin mời các bạn!





Mời các bạn ăn bún ốc


Bún ốc ngon không? Ai muốn ăn thì ghé thưởng thức bún ốc của mình nhé

Nguồn: Nguyen Tuyet Hanh blog


 

Hoàng Kim


Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành. Tôi biết bài thơ kỳ lạ này của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà không thấy sách báo nào nhắc đến hơn ba mươi năm qua.

Thuở ấy, tôi mới mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của bộ trưởng Xuân Thủy và bí thư tỉnh ủy Quảng Bình vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ đã bình bài thơ trên.

Tôi đã giới thiệu những bài thơ Qua đèo Ngang xướng họa này tại trang DAYVAHOC (http://blogtiengviet.net/DAYVAHOC), THƠ CHO CON (http://my.opera.com/hoangkim1) và thầy tôi Nguyễn Khoa Tịnh đã có bài thơ cảm động "Em ơi em can đảm bước chân lên!" viết từ thuở ấy! Tôi đã đăng ở trang này (http://blog.360.yahoo.com/hoangkim_vietnam) để minh chứng sự thật đó.

Bộ trưởng Xuân Thủy là  nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là
người đã dịch bài thơ "Nguyên tiêu" nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời  bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ "Trung Nam Hải"
từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ trên của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới có khác một chữ so với bài mà tôi được đọc và nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “ Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp” hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ "Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân" và không đơn giản dịch là "Tìm bạn không gặp". Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại. Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam "chiến đấu trong vòng vây"; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Ngày xuân, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai.

Nguồn
: Hoàng Kim Blog



Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính
 
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, DayvahocHọc mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con